Friday, May 17, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaMột số phân tích về âm mưu, thủ đoạn của TQ khi...

Một số phân tích về âm mưu, thủ đoạn của TQ khi ngăn cản trái phép ngư dân Việt Nam trên Biển Đông

Việc tàu Hải Cảnh Trung Quốc cố tình đâm chìm tàu cá và bắt giữ trái phép ngư dân Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa là cách để giới cầm quyền Trung Quốc thực hiện âm mưu “độc chiếm Biển Đông”, từng bước phục vụ âm mưu, ý đồ phát triển kinh tế, khẳng định yêu sách “chủ quyền” và nguồn cung thực phẩm cho 1,4 tỷ dân đói khát.

Vùng biển giàu tiềm năng

Trải rộng từ vĩ độ 3 lên đến vĩ độ 26 Bắc và từ kinh độ 100 đến 121 Đông, Biển Đông là một biển nửa kín. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi 8 nước khác là Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Tiềm năng của vùng biển này là nguồn sống phong phú của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Với vị trí, địa lý và khí hậu đặc biệt đã tạo cho vùng biển Đông sự đa dạng sinh học cao so với các nước trên thế giới, cả về cấu trúc thành phần loài, hệ sinh thái và nguồn gen. Khác biệt về điều kiện tự nhiên từ Bắc đến Nam như sự thay đổi nhiệt độ theo vĩ tuyến, mức độ trao đổi môi trường với các vùng xung quanh, hình thái thềm lục địa… đã tạo nên những nét đặc trưng của các hệ sinh thái giữa các vùng biển ở Việt Nam.

Cho đến nay, trong vùng biển này đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy, 2.038 loài cá, trên 100 loài cá kinh tế, hơn 300 loài san hô cứng, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển và 5 loài rùa biển. Nguồn tài nguyên sinh vật biển quan trọng đã mang đến những ưu thế cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh. Trữ lượng hải sản đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, cơ cấu hải sản rất phong phú, có giá trị kinh tế cao có thể khai thác được hàng năm. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines.

Dân Trung Quốc đói khát hải sản

Theo ước tính, thì năm 2012 Biển Đông chiếm khoảng 12% sản lượng đánh bắt cá của thế giới, trị giá 21,8 tỷ USD. Nhưng với sự tham gia hoạt động đánh bắt cá ngày một nhiều của các nước trong khu vực. Thì sản lượng đánh bắt cá và nguồn trữ lượng cá năm 2015, đã giảm khoảng 70 – 90%, so với năm 1950. Riêng lượng cá chưa khai thác gần bờ có xu hướng giảm nhất, hiện nay giảm xuống chỉ còn từ 5 đến 30%. Vì nguồn lợi thủy sản chiếm vị trí quan trọng chiến lược đối với Trung Quốc, ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế, đời sống và khẩu phần ăn của người dân nước này. Nên từ những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc phải tính tới việc ra lệnh cấm các nước đánh bắt cá đối với khu vực Biển Đông. Có thể nói, Trung Quốc vừa là nguồn cung, cũng vừa là thị trường lớn nhất vê tiêu thụ cá trên thế giới. Nước này có tới 9 triệu ngư dân (chiếm ¼ ngư dân của thế giới), nếu tính gộp tất cả các ngành nghề liên quan tới ngư nghiệp, đánh bắt thủy sản, thì mỗi năm đã đóng góp cho ngân sách nước này khoảng 330 tỷ USD, tương đương 3,5% GDP Trung Quốc. Không những vậy, Trung Quốc còn là nước có đội tàu cá đông nhất thế giới (khoảng 450.000 tàu cá), trong đó khoảng 200.000 tàu đánh cá đại dương. Hàng năm, số tàu cá Trung Quốc khai thác, đánh bắt khoảng 71 triệu tấn cá ở khu vực Biển Đông. Theo số liệu thống kê, Trung Quốc là nước đứng đầu thế giới về tốc độ phát triển nghề cá. Năm 1980, khi châu Á chiếm 43% sản lượng cá thế giới, Trung Quốc mới chỉ chiếm 7%. Đến năm 2013, châu Á chiếm 68% thì Trung Quốc đã chiếm 32%, mang lại cho nền kinh tế nước này 289 tỷ USD.

Trước đây, Trung Quốc xác định vùng đánh bắt cá của ngư dân chủ yếu là bốn biển Bột Hải, Hoàng Hải, Đông Hải (biển Hoa Đông) và Nam Hải (Biển Đông). Tuy nhiên, gần đây do biển Bột Hải và Hoàng Hải đã cạn kiệt cá, cần giảm việc đánh bắt để tái tạo nguồn cá, Trung Quốc đã đẩy mạnh đánh bắt cá tại biển Hoa Đông và Biển Đông. Một báo cáo do tiến sĩ Rashid Sumaila và tiến sĩ William Cheung thuộc Đại học British Columbia, Canada công bố hồi năm ngoái cho thấy có đến 55% số tàu cá của toàn thế giới đang hoạt động ở Biển Đông, trong đó đội tàu cá của Trung Quốc và Đài Loan chiếm đa số. Đồng thời, Trung Quốc cũng điều chỉnh nhiều chủ trương, chính sách liên  quan việc khai thác, đánh bắt hải sản. Theo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc về ngư nghiệp, Bắc Kinh đề ra mục tiêu cao đối với sản xuất cá. Từ năm 2016, đạt 73 triệu tấn vào năm 2020 và tiến đến đạt 77 triệu tấn vào năm 2024; tăng xuất khẩu lên 5,4 triệu tấn vào năm 2024. Theo tiến sĩ Euan Graham (Đại học Công nghệ Nanyang – Singapore), hiện Trung Quốc đã cấp phép cho trên 500 tàu cá hoạt động tại vùng biển Trường Sa. Năm ngoái, nước này cũng đưa vào khai thác tàu chế biến hải sản trực tiếp trên biển với tải trọng 32.000 tấn có khả năng xử lý 2.000 tấn hải sản mỗi ngày và hoạt động liên tục 9 tháng. 

Thủ đoạn kiểm soát nguồn hải sản ở Biển Đông của Trung Quốc

Đầu tiên, Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh có “quyền đánh cá truyền thống” và “vùng nước lịch sử”ở Biển Đông để hợp thức hóa âm mưu độc chiếm hải sản trong khu vực. Trong nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc liên tục cho rằng “Bắc Kinh có quyền từ xưa và chủ quyền lịch sử đối với các bãi ngầm, bãi đá ở Biển Đông”, và rằng “Biển Đông là ngư trường truyền thống của ngư dân Trung Quốc”, đồng thời phản bác lại các tuyên bố chủ quyền của các nước đối với vùng biển này. Tuy nhiên, Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng thuyết phục và các lập luận liên quan yêu sách “chủ quyền” trên, cố tình mập mờ trong việc giải thích cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất yêu sách chủ quyền của mình.

Thứ hai, ban hành trái phép “Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm”. Từ năm 1999 đến nay, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đều đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông. Phạm vi mà Lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough, đã bao trùm lên một phần vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Dù biết vi phạm luật pháp quốc tế, Trung Quốc cố tình đưa ra lệnh cấm đánh cá nhằm: (1)  Để thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc áp dụng và phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp để “giành lấy sự công nhận trên thực tế” yêu sách chủ quyền phi pháp trên Biển Đông. Trung Quốc muốn thông qua việc cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, đặc biệt là UNCLOS để tìm cách hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. (2) Thông qua việc đưa ra quy định cấm đánh bắt cá hàng năm, Trung Quốc muốn phản biện lại phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016) bằng cách chứng minh “Trung Quốc là nước đang kiểm soát hiện hữu, lâu dài ở Biển Đông” và các thực thể địa lý (bị Tòa tuyên bố không phải đảo) đó hoàn toàn “thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng”. (3) Trung Quốc muốn thông qua lệnh cấm đánh bắ cá mặc cả, răn đe, hăm dọa, mua chuộc các quốc gia, các công ty, các cá nhân đang thực hiện các dự án đầu tư khai thác tài nguyên trong phạm vi hoàn toàn nằm trong các vùng biển hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.

Thứ ba, sử dụng lực lượng chấp pháp đàn áp, bắt giữ trái phép tàu cá của Việt Nam. Trung Quốc thường xuyên duy trì các loại tàu quân sự, chấp pháp, máy bay tuần tra bắt giữ tàu cá trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Liên quan các vụ việc tấn công ngư dân Việt Nam, riêng trong năm 2018, đã xảy ra nhiều vụ tàu của ngư dân Việt Nam đã bị các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc xua đuổi, tấn công khi hoạt động đánh bắt ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa.

Thứ tư, Trung Quốc còn tìm cách xua đuổi ngư dân vào tránh bão, nhằm “răn đe” ngư dân không được đi vào “vùng biển của Trung Quốc”. Trong năm 2018, Văn phòng ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn thông tin (18/6/2018) cho biết do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, 20 tàu cá cùng 100 ngư dân của tỉnh Quảng Ngãi đã trú tránh ở rìa Nam Tây Nam đảo Bạch Quy (thuộc quần đảo Hoàng Sa) thì bị tàu của Trung Quốc xua đuổi, không cho cập bờ tránh bão.

Thứ năm, thông qua cơ quan ngoại giao để bao biện cho các hoạt động phi pháp của Trung Quốc. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng (3/1/2019) cho rằng các quốc gia láng giềng trên thế giới có tranh chấp về nghề cá là việc “bình thường” và tàu hải cảnh của Trung Quốc nhiều lần xua đuổi, tấn công tàu cá của Việt Nam ở khu vực Hoàng Sa cũng là điều “bình thường”. Cái cớ mà Lục Khảng đưa ra để biện hộ cho hành xử ngang ngược của lực lượng hải cảnh của Trung Quốc là thi hành “lệnh nghỉ đánh bắt cá” để nuôi dưỡng, phát triển nghề cá hải dương.

Hành động của Trung Quốc vi phạm cả luật quốc tế lẫn thỏa thuận song phương, đa phương.

Đầu tiên, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm (phi pháp) là quyết định vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Sau khi sử dụng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc áp dụng nhiều thủ đoạn, để hợp thức hóa “chủ quyền lịch sử” đối với khu vực này, như xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố; ồ ạt đưa quân, dân ra quần đảo để tạo lập các đơn vị hành chính “thành phố Tam Sa”; công bố văn bản pháp lý quy định hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng các vùng biển và thềm lục địa bao lấy toàn bộ quần đảo; thường xuyên  ra các lệnh, quyết định hành chính, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là một ví dụ điển hình. 

Thứ hai, phạm vi của Lệnh cấm đánh cá vi phạm các quy định của UNCLOS 1982, Việt Nam (12/11/1982) đã công bố Tuyên bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam, nên Việt Nam hoàn toàn có quyền xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của mình. Phạm vi mà Lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough, đã bao trùm lên một phần vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Không những vậy, tại phán quyết của Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (7/2016), Toà đã khẳng định việc áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá năm 2012 tại một khu vực lớn tại Biển Đông, mà không loại trừ EEZ của Philippines và không giới hạn áp dụng với các tàu mang cờ Trung Quốc, là sự vi phạm Điều 56 UNCLOS về quyền chủ quyền đối với tài nguyên sinh vật biển trong EEZ của Philippines (đoạn 716, phán quyết 2016). Việc tiếp tục đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh đánh bắt cá trong phạm vi rộng tại Biển Đông vào năm 2017, năm 2018, sau khi phán quyết Tòa Trọng tài có hiệu lực, cho thấy sự thách thức của Trung Quốc đối với quy định của pháp luật quốc tế hiện hành. Ngoài ra, phạm vi lệnh cấm đánh cá còn vi phạm quy chế của vùng chồng lấn nằm ở cửa vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc đang đàm phán phân định vùng chồng lấn này. Theo quy định của UNCLOS và theo thực tiễn quốc tế, trong khi đàm phán phân định vùng chồng lấn, các bên liên quan không được phép đơn phương tiến hành bất kỳ một hoạt động nào. Việc Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh cá ở vùng chồng lấn là trái với quy định của UNCLOS, bất chấp thông lệ quốc tế và hoàn toàn đi ngược lại cam kết chính trị của hai bên. 

Ngoài ra, Trung Quốc cũng vi phạm mục a, mục b, Khoản 1, Điều 98 của UNCLOS về Nghĩa vụ giúp đỡ. Điều 98 quy định “Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu, phải: a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển; b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng mực mà người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như thế; c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập bến”.

Thứ tư, việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm cho thấy Trung Quốc vi phạm Điều 5 của DOC. Điều 5 quy định: “Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh sống, trên các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng. Trong khi chờ đợi sự dàn xếp hòa bình cho các tranh chấp về lãnh thổ và quyền thực thi pháp luật, các bên liên quan tiến hành tăng cường những nỗ lực nhằm tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau trong tinh thần hợp tác và hiểu biết, bao gồm: Tổ chức các cuộc đối thoại và trao đổi quan điểm một cách thích đáng giữa các quan chức phụ trách quân sự và quốc phòng. Bảo đảm đối xử công bằng và nhân đạo đối với tất cả mọi người đang gặp hiểm nguy hoặc tai họa. Thông báo trên cơ sở tự nguyện cho các bên liên quan khác về mọi cuộc tập luyện quân sự liên kết/hỗn hợp sắp diễn ra”.

Thứ năm, vi phạm các quy định, thỏa thuận song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp ở Biển Đông đã được ghi nhận và nhắc lại nhiều lần trong các văn kiện song phương và khu vực. Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết DOC.

Phản ứng của Việt Nam.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lân tuyên bố Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền hợp pháp với các vùng biển Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS; nhấn mạnh Việt Nam kiên quyết phản đối và bác bỏ quyết định đơn phương này của Trung Quốc vì đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông DOC ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, không phù hợp với xu thế phát triển quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình ở khu vực.

Hội Nghề cá Việt Nam cũng nhiều lần có công văn gửi các Bộ, ngành liên quan phản đối hành động đơn phương này từ phía Trung Quốc. Theo Hội Nghề cá Việt Nam, hành động đơn phương han hành Quy chế cấm đánh bắt cá của Trung Quốc trên Biển Đông gây cản trở sản xuất trên biển của ngư dân, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và vùng biển vịnh Bắc bộ, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại DOC; không phù hợp với xu thế phát triển của quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực; nhấn mạnh Hội Nghề cá Việt Nam kịch liệt phản đối hành động đơn phương và không có giá trị pháp lý của phía Trung Quốc. Quyết định trên của phía Trung Quốc là vô giá trị.

 

 

RELATED ARTICLES

Tin mới