Việt Nam là nước yêu chuộng hòa bình, nhưng sẵn sàng làm triển khai tất cả các biện pháp để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trung Quốc – nước đã xâm chiếm trái phép biển đảo của Việt Nam cần nhìn nhận thực tế lịch sử và chấm dứt ngay những hành vi trên.
Những lời đe dọa hống hách của Trung Quốc
Trong những ngày gần đây, Trung Quốc liên tục đưa ra những tuyên bố mang tính khiêu khích, đe dọa Việt Nam cũng như một số nước tồn tại tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Trong Công hàm (17/4) của phái đoàn thường trực Trung Quốc tại Liên hợp quốc, nước này ngang nhiên cho rằng: Trung Quốc có “chủ quyền” đối với Quần đảo Xisha (quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và vùng biển lân cận, Quần đảo Nansha (quần đảo Trường Sa của Việt Nam) và vùng biển lân cận, và có “quyền chủ quyền và quyền tài phán” đối với các vùng biển và đáy biển có liên quan. Trung Quốc có “chủ quyền lịch sử” và “quyền và lợi ích hàng hải” tại các đảo Biển Đông và các vùng biển liên quan được hình thành trong “thực tiễn lịch sử lâu dài”, được chính phủ Trung Quốc thiết lập duy trì Luật quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển. Chính phủ Trung Quốc khẳng định “chủ quyền” của Quần đảo Xisha và Quần đảo Nam Sa đã được cộng đồng quốc tế “công nhận” rộng rãi. Chính phủ Việt Nam cũng đã “công nhận” rõ ràng điều này. Vào ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Tuyên bố về lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đông “thừa nhận”. Trong tuyên bố gửi Thủ tướng Chu Ân Lai khẳng định “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận và tán thành tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về quyết định chiều rộng lãnh hải”. Sau năm 1975, Việt Nam “vi phạm lệnh cấm estoppel”, và đã đệ trình các yêu sách lãnh thổ “bất hợp pháp” đối với quần đảo Xisha và quần đảo Nansha, hành vi này “vi phạm” các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc, Việt Nam còn cử quân đội “xâm chiếm” một số đảo và rạn san hô của Quần đảo Nansha của Trung Quốc. Trung Quốc luôn phản đối việc “chiếm đóng bất hợp pháp” của Việt Nam đối với một số đảo và rạn san hô ở quần đảo Nansha và “xâm phạm” quyền tài phán của Trung Quốc.
Đáng chú ý, trong công hàm trên, Trung Quốc ngang nhiên đe dọa “kiên quyết yêu cầu Việt Nam rút toàn bộ nhân sự vận hành và các cơ sở trên các đảo và bãi đá mà nước này xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp”. Đây là một câu văn đầy hàm ý đe dọa, cho thấy Trung Quốc có thể gia tăng cưỡng ép hoặc viện đến vũ lực trên thực địa chống lại các quốc gia có yêu sách khác.
Trong tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng (20/4), ông này ngang ngược cho rằng “Trung Quốc luôn kiên quyết phản đối những lời nói và hành động của Việt Nam làm suy yếu chủ quyền và quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc”; đồng thời tuyên truyền “Trung Quốc có chủ quyền đối với Xisha, quần đảo Nam Sa và vùng biển lân cận của họ, và có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển và đáy biển có liên quan”, ngụy biện cho rằng “Chính phủ Trung Quốc lựa chọn và công bố tên của một số đảo và rạn san hô Xisha và Nansha và các địa danh dưới đáy biển thuộc thẩm quyền của mình theo luật pháp và quy định trong nước”. Dựa trên tuyên bố của Cảnh Sảng cho thấy nước này đang lên giọng rằng “bất kể quốc gia nào, dưới bất kỳ hình thức nào, mưu toan phủ nhận chủ quyền và quyền lợi của Trung Quốc tại Nam Hải, đẩy mạnh các yêu sách phi pháp, đều vô hiệu và tất sẽ thất bại”; đặc biệt, Cảnh Sảng còn đe dọa: “Phía Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để kiên quyết bảo vệ chủ quyền và quyền lợi tại Nam Hải”. Cụm từ “mọi biện pháp cần thiết” là lời đe dọa đáng chú ý, thường gợi ý về việc không loại trừ biện pháp quân sự.
Việt Nam sẽ triển khai mọi biện pháp bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Việt Nam là một trong các bên liên quan trực tiếp tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tuy là nước duy nhất có đầy đủ chứng cứ pháp lý, căn cứ lịch sử khẳng định chủ quyền hợp pháp ở vùng biển này, nhưng Việt Nam đang bị một số nước xâm chiếm nhiều đảo, đá ở Hoàng Sa và Trường Sa. Để giải quyết tranh chấp, Việt Nam đang thực hiện tổng hợp nhiều biện pháp nhằm bảo vệ chủ quyền và tìm kiếm các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp với các nước liên quan.
Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là thông qua các kênh ngoại giao và chính trị để giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế và đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan. Đây có thể được coi là biện pháp hữu hiệu và thiết thực nhất để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, song biện pháp này đang rơi vào thế bế tắc do các bên liên quan tranh chấp đều khẳng định vấn đề chủ quyền lãnh thổ là bất khả xâm phạm và không thể nhượng bộ. Vì vậy, tất cả các nước có tranh chấp cần có ý trí chính trị, tinh thần thượng tôn pháp luật và nhìn nhận một cách khách quan về yêu sách chủ quyền ở Biển Đông để tiến hành đàm phán (song phương hoặc đa phương nếu liên quan các vấn đề đa phương) giải quyết tranh chấp. Việc sử dụng biện pháp đàm phán sẽ làm sáng tỏ những bất đồng, là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên tranh chấp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, Việt Nam đã, đang triển khai hiệu quả tuyên truyền vấn đề chủ quyền, giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất tranh chấp ở Biển Đông và đưa ra các biện pháp hỗ trợ về tinh thần, pháp lý cho Việt Nam khi tìm cách giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Lãnh đạo nhiều nước, các tổ chức quốc tế, khu vực cũng như chuyên gia, học giả quốc tế đã lên tiếng bảo vệ Việt Nam, cho rằng Việt Nam có ưu thế về mặt pháp lý, chứng cứ lịch sử và quản lý liên tục một cách hòa bình ở Biển Đông. Thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp tuyên truyền chủ quyền biển đảo, giúp nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về chủ trương, chính sách cũng như quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam một cách hòa bình, thượng tôn pháp luật.
Thứ ba, Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật biển, làm cơ sở cho việc xác lập chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia; triển khai chặt chẽ việc phân vùng, bố trí dân cư ven biển với tổ chức các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo; ban hành chính sách khuyến khích mạnh mẽ nhân dân định cư sinh sống ổn định lâu dài trên đảo và làm ăn trên biển dài ngày. Các địa phương có biển, đảo cần có chủ trương, giải pháp, kế hoạch phù hợp, nhằm tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh nghiệp và nhân dân trong quản lý bảo vệ, khai thác các lợi ích từ biển.Trên cơ sở các văn bản pháp lý công bố rộng rãi trong nước và quốc tế, cần kiên trì đấu tranh ngoại giao, đàm phán với các nước láng giềng, các nước có tranh chấp thềm lục địa, vùng chồng lấn, phân chia vùng biển lịch sử và đảo; xây dựng vùng biển hòa bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển.
Thứ tư, nếu các biện pháp chính trị, ngoại giao không giải quyết được tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và Trung Quốc tiếp tục có các hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông, Việt Nam cũng không loại trừ khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp với các bên liên quan. Việt Nam cần chủ động nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ pháp lý để có thể vận dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tài phán, nhất là thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Tuy Trung Quốc đã bảo lưu Điều 298 của UNCLOS, song vẫn có những cửa rất hẹp để Việt Nam có thể vận dụng để kiện Trung Quốc. Đặc biệt, việc Tòa trọng tài đang giải quyết vụ Philipines kiện Trung Quốc khẳng định có thẩm quyền giải quyết vụ kiện và dự kiến sẽ ra một phán quyết công bằng, khách quan có lợi cho Philipines, bác bỏ các yêu sách vô lý và phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông, thì Việt Nam có thể sử dụng thủ tục này trong trường hợp cần thiết. Với các tranh chấp liên quan giải thích và áp dụng UNCLOS hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc như: tranh chấp liên quan đến tuyên bố của Trung Quốc về “đường chữ 9 đoạn”; tranh chấp liên quan đến sự kiện Trung Quốc sử dụng các tàu cá giả dạng để cắt cáp tàu Bình Minh – 02, tàu Viking 2; hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và đưa nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; tranh chấp liên quan đến hành vi sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trên Biển Đông của Trung Quốc trong thời gian gần đây; Trung Quốc đã tiến hành bồi đắp, xây dựng phi pháp với quy mô rất lớn trên 7 bãi đá ở quần đảo Trường Sa (Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập, Gaven, Tư Nghĩa, Xu Bi, Vành Khăn) mà Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng từ năm 1988 đến nay (bãi Vành Khăn Trung Quốc chiếm từ năm 1995), Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để khởi kiện Trung Quốc theo thủ tục trọng tài quốc tế về luật biển, vì: (i) Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm chiếm phi pháp các đảo, đá của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, hành động này đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Ngoài ra, tuy Trung Quốc đang cố tình né tránh, không thừa nhận có tranh chấp và luôn cho rằng, họ đang thực hiện các “quyền đương nhiên”, “lợi ích cốt lõi” của họ trên Biển Đông thì thực tế hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đang tồn tại tranh chấp liên quan đến việc Trung Quốc đã giải thích và áp dụng sai UNCLOS. (ii) Việt Nam đã tích cực sử dụng các biện pháp chính trị – ngoại giao để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc nhưng Trung Quốc không hợp tác, tranh chấp không được giải quyết. Theo quy định về giải quyết tranh chấp trong UNCLOS, đặc biệt vận dụng Điều 281, từ khi phát sinh các tranh chấp, Việt Nam đã tiến hành đàm phán, trao đổi quan điểm với Trung Quốc nhưng Trung Quốc vẫn không thiện chí để giải quyết và cũng không có bất kỳ thoả thuận nào với Việt Nam, khiến tranh chấp không được giải quyết và ngày càng căng thẳng, phức tạp. Đây chính là căn cứ quan trọng để Việt Nam sử dụng biện pháp tài phán theo quy định tại Điều 287 của UNCLOS. (iii) Việt Nam và Trung Quốc chưa ký kết bất cứ Hiệp định, Điều ước, Tuyên bố song phương hoặc đa phương nào về nghĩa vụ phải giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình (bao gồm cả song phương và đa phương), không được sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam và Trung Quốc không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ giải quyết tranh chấp cụ thể nào từ các hiệp định chung, hiệp định khu vực hay hai bên nào theo Điều 282 của UNCLOS. Việt Nam và Trung Quốc chỉ tham gia ký kết, là một bên liên quan trong một số Hiệp định, Thỏa thuận có quy định về việc giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế như DOC, TAC, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1993 và Thỏa thuận về nguyên tắc 6 điểm giải quyết các vấn đề trên biển năm 2011. (iv) Việt Nam và Trung Quốc đều chưa có tuyên bố nào về lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp liên quan đến giải thích hay áp dụng UNCLOS theo quy định tại khoản 1 Điều 287. Do vậy, chiếu theo khoản 3 Điều 287 thì Việt Nam và Trung Quốc mặc nhiên đã chọn Tòa trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS để giải quyết tranh chấp về giải thích và áp dụng UNCLOS. (v) Giống như Philippines kiện Trung Quốc, các nội dụng và phạm vi khởi kiện của Việt Nam chỉ mang tính chất giải thích và áp dụng UNCLOS về thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, về nghiên cứu khoa học biển và đánh bắt hải sản, không nằm trong phạm vi quy định của Điều 298 UNCLOS mà Trung Quốc đã tuyên bố bảo lưu.
Thứ năm, nếu các biện pháp hòa bình trên không đạt được kết quả, Việt Nam cũng không thể khoanh tay đứng nhìn nước nào đó chiếm chọn Biển Đông, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Tuy đây là biện pháp cuối cùng và nó cũng là cách mà không người Việt Nam nào mong muốn, song để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam cũng không loại trừ khả năng sử dụng các biện pháp vũ trang để tự vệ, chống lại các hành động xâm phạm chủ quyền đã được luật pháp quốc tế và đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận và ủng hộ. Hành động của Việt Nam chỉ mang tính chất tự vệ, không nhằm mục đích sử dụng vũ lực để xâm chiếm lãnh thổ của các nước khác. Điều này đã được khẳng định và thể hiện rõ nét trong chính sách quốc phòng của Việt Nam thời gian qua. Theo đó, tính chất nhất quán của quốc phòng Việt Nam là: Tự vệ, chính nghĩa, quốc phòng hòa bình, dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo, là chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động phát triển kinh tế biển trong thời bình, đồng thời đáp ứng nhiệm vụ tác chiến trên biển trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy, Việt Nam cần chủ động chuẩn bị các phương án tác chiến, xây dựng các công trình phòng thủ; kết hợp chặt chẽ thế trận của các đảo, cụm đảo với thế trận của lực lượng cơ động trên biển, thế trận ven biển, thế trận phòng không-không quân… góp phần răn đe, ngăn ngừa xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh. Khi xảy ra xung đột, cần bình tĩnh kiềm chế, kiên trì đấu tranh; đồng thời, triển khai lực lượng và các hoạt động trên biển, tạo thế hỗ trợ, phối hợp với đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý…, không để đối phương lợi dụng tạo cớ, gây xung đột vũ trang và chiến tranh đánh chiếm biển, đảo của Việt Nam. Trường hợp buộc phải đấu tranh vũ trang, cần hành động kiên quyết, nhanh, mạnh, gọn, kết hợp với các mặt đấu tranh khác không để xung đột lan rộng, kéo dài, mở rộng thành chiến tranh.