Khi Tập Cận Bình (Xi Jinping) lên cầm quyền năm 2012, tôi tràn trề hy vọng cho Trung Quốc. Là giáo sư một trường uy tín chuyên đào tạo các nhà lãnh đạo hàng đầu của đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi đủ hiểu biết lịch sử để kết luận rằng thời điểm Trung Quốc mở cửa hệ thống chính trị đã qua rồi.
Sau một thập niên trì trệ, ĐCSTQ cần cải cách hơn bao giờ và Tập, tỏ dấu hiệu cho thấy là người có thiên hướng thay đổi, dường như sẽ là người dẫn dắt cuộc cải cách đó.
Khi ấy tôi đã đi được một nửa quá trình kéo dài hàng thập niên vật lộn với hệ tư tưởng chính thức của Trung Quốc dù tôi có trách nhiệm giáo huấn hệ tư tưởng đó cho các quan chức. Có thời là một người Marxist nồng nhiệt, tôi đã chia tay với chủ nghĩa Marx và nhìn sang tư tưởng của Phương Tây để tìm câu trả lời cho những vấn đề của Trung Quốc. Có thời là người bảo vệ kiêu hãnh cho chính sách chính thức, tôi bắt đầu biện hộ cho tự do hóa. Có thời là đảng viên trung kiên của ĐCSTQ, tôi đã bí mật nghi ngờ sự trung thực trong niềm tin của đảng và mối quan tâm của đảng đối với nhân dân Trung Quốc.
Vì thế tôi không nên ngạc nhiên khi hóa ra Tập không phải là nhà cải cách. Trong suốt nhiệm kỳ của ông ta, chế độ đã thoái hóa hơn nữa vào một chế độ quả đầu chính trị chỉ cốt duy trì quyền lực thông qua sự tàn bạo và nhẫn tâm. Chế độ đã trở nên ngày càng đàn áp và độc tài. Một sự sùng bái cá nhân bao quanh Tập, người đã siết chặt quyền kiểm soát đảng về ý thức hệ và xóa bỏ chút không gian còn lại dành cho phát ngôn chính trị và xã hội dân sự. Những người không sống ở Trung Quốc lục địa trong tám năm qua khó có thể hiểu được chế độ đó đã trở nên tàn bạo như thế nào, đã gây ra bao nhiêu bi kịch thầm lặng. Sau khi lên tiếng chống lại hệ thống, tôi biết tôi không còn an toàn khi sống ở Trung Quốc.
Giáo dục một người Cộng sản
Tôi sinh ra trong một gia đình quân đội Cộng sản. Năm 1928, khi cuộc nội chiến Trung Quốc bắt đầu, ông ngoại tôi gia nhập cuộc khởi nghĩa nông dân do Mao Trạch Đông (Mao Zedong) dẫn dắt. Khi đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng tạm gác thù địch trong thời Thế Chiến thứ Hai, cha mẹ tôi và phần lớn gia đình bên ngoại tôi chiến đấu chống quân xâm lược Nhật Bản trong đoàn quân do đảng Cộng sản lãnh đạo.
Sau chiến thắng của đảng Cộng sản năm 1949, cuộc sống thật tốt đẹp cho một gia đình cách mạng như gia đình tôi. Cha tôi chỉ huy một đơn vị Quân Giải phóng Nhân dân gần Nam Kinh, còn mẹ tôi quản lý một văn phòng trong chính quyền thành phố đó. Cha mẹ tôi cấm hai chị tôi và tôi lợi dụng các đặc quyền của cơ quan họ, để chúng tôi không trở thành “các cô chiêu tư sản hư hỏng”. Chúng tôi không thể đi lại bằng chiếc xe hơi công vụ của cha tôi và các cận vệ của ông không bao giờ làm những việc vặt trong gia đình tôi. Tuy vậy, tôi được hưởng lợi từ vị thế của cha mẹ tôi và không bao giờ phải chịu đựng nỗi thống khổ mà rất nhiều người Trung Quốc phải chịu trong những năm tháng thời Mao. Tôi không biết gì về hàng chục triệu người bị chết đói trong thời kỳ Đại Nhảy Vọt.
Tất cả những gì tôi nhìn thấy là tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội. Tủ sách của gia đình tôi đầy những trước tác Marxist, chẳng hạn như Tuyển tập Stalin và Cán bộ cần đọc. Khi còn là thiếu niên tôi dùng những cuốn sách này làm sách đọc thêm ngoại khóa. Mỗi khi giở những trang sách ấy ra, lòng tôi tràn đầy niềm kính phục. Cho dù tôi không nắm được tính phức tạp trong các lập luận của sách, sứ mệnh của tôi thật rõ ràng: Tôi phải yêu tổ quốc mình, thừa kế sự nghiệp cách mạng của cha mẹ tôi và xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn người bóc lột người. Tôi là một tín đồ thật sự.
Tôi có được sự hiểu biết tinh tế hơn về tư tưởng cộng sản sau khi gia nhập Quân Giải phóng Nhân dân năm 1969, ở tuổi 17. Cuộc Cách mạng Văn hóa đang lên cao trào, Mao đòi hỏi mọi người phải đọc sáu cuốn sách của Karl Marx và Friedrich Engels, kể cả Tuyên ngôn Cộng sản. Một đoạn văn không thực tế trong cuốn tuyên ngôn đó đã để lại ấn tượng lâu dài trong tôi: “Thay cho xã hội tư sản kiểu cũ với những giai cấp và hận thù giai cấp chúng ta sẽ có một xã hội mới, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Mặc dù vào thời điểm đó tôi không thật sự hiểu rõ quan niệm về tự do, những lời nói ấy in sâu vào đầu óc của tôi.
Quân Giải phóng Nhân dân cử tôi về một trường y khoa quân đội. Công việc của tôi là quản lý thư viện của trường, trong đó có nhiều bản dịch tiếng Trung Quốc các tác phẩm “phản động”, phần lớn là văn chương và triết học chính trị Tây Phương. Nổi bật nhờ đóng bìa màu xám, những cuốn sách này chỉ dành riêng cho người trong cuộc của chế độ với mục đích giúp họ làm quen với những đối thủ ý thức hệ của Trung Quốc, nhưng tôi cũng bí mật đọc được. Tôi có ấn tượng nhất với cuống Thăng trầm của Đế chế Thứ Ba của nhà báo Mỹ William Shirer và tuyển tập các truyện ngắn Xô Viết. Tôi nhận ra rằng có một thế giới ý tưởng bên ngoài những cuốn sách kinh điển Marxist. Nhưng tôi vẫn tin chủ nghĩa Marx là chân lý duy nhất.
Tôi rời quân đội năm 1978 và có được việc làm trong công đoàn do đảng điều hành tại một nhà máy sản xuất phân bón ở ngoại ô thành phố Tô Châu. Khi ấy, Mao đã chết và Cách mạng Văn hóa đã kết thúc. Người kế vị ông ta, Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) mở ra một giai đoạn cải cách và mở cửa, và trong một phần của nỗ lực này, ông ta chiêu mộ một thế hệ mới những cán bộ có đầu óc cải cách có thể điều hành đảng trong tương lai. Mỗi tổ chức đảng địa phương phải chọn ra một vài đảng viên để phục vụ trong nhóm này, và tổ chức đảng thành phố Tô Châu đã chọn tôi. Tôi được cử theo học chương trình hai năm tại Trường Đảng thành phố Tô Châu, nơi tôi và các bạn cùng lớp nghiên cứu học thuyết Marx và lịch sử ĐCSTQ. Chúng tôi cũng được học chút ít về văn chương cổ điển Trung Quốc, môn học mà chúng tôi đã bị lỡ do giáo dục bị gián đoạn trong thời Cách mạng Văn hóa.
Tôi đã nghiền ngẫm cuốn Tư Bản Luận hai lần, đã học được những chỗ đúng và chỗ sai của học thuyết Marx. Điều hấp dẫn tôi nhất là những ý tưởng của Marx về lao động và giá trị – nói đúng ra, đó là việc nhà tư bản tích lũy của cải bằng cách lợi dụng người lao động. Tôi cũng ấn tượng với cách tiếp cận triết học của Marx, chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho phép ông nhìn nhận các hệ thống chính trị, pháp lý, văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên nền tảng của sự bóc lột kinh tế.
Khi tôi tốt nghiệp năm 1986, tôi được giữ lại trường làm giảng viên, lúc ấy trường đang thiếu người dạy. Tôi nhận lời, và làm cho một số nhà lãnh đạo thành phố tức giận vì họ nghĩ tôi sẽ có một tương lai hứa hẹn hơn nếu làm cán bộ đảng. Thay vì vậy, công việc mới đã khởi động sự nghiệp của tôi như là một nhà nghiên cứu trong hệ thống truyền bá ý thức hệ của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Từ sinh viên trở thành nhà giáo
Trên đỉnh cao của hệ thống truyền bá đó là Trường Đảng trung ương ở Bắc Kinh. Từ năm 1933, trường này đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ cấp cao nhất của ĐCSTQ, những người điều hành guồng máy quan lại Trung Quốc từ cấp thành phố trở lên. Trường có quan hệ mật thiết với giới tinh hoa trong đảng và luôn được một ủy viên Bộ Chính Trị phụ trách. (Chủ tịch của trường từ 2007 đến 2012 không ai khác hơn là Tập Cận Bình).
Tháng Sáu năm 1989, chính phủ đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn, giết chết hàng trăm người. Trong thâm tâm, tôi kinh hoàng khi thấy Quân Giải phóng Nhân dân nổ súng vào các sinh viên đại học; điều đó trái với lời dạy tôi học được từ bé rằng quân đội bảo vệ nhân dân, chỉ có “bọn quỷ Nhật” và bọn phản động Quốc Dân Đảng mới giết dân.
Kinh hoàng với cuộc phản kháng, cùng sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, giới lãnh đạo chóp bu đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định phải chống lại sự lỏng lẻo về ý thức hệ. Đảng ra lệnh cho các trường đảng địa phương phải cử một số giảng viên lên Trường Đảng Trung ương để chỉnh đốn về tư tưởng. Trường tôi dạy ở Tô Châu chọn tôi. Thời gian ngắn ngủi ở Trường Đảng Trung ương lại làm tôi muốn học tập ở đó lâu hơn nữa. Sau một năm chuẩn bị thi tuyển, tôi được nhận vào chương trình thạc sĩ ở khoa lý luận của trường. Thế là tôi đã hiến dâng cho đường lối của đảng Cộng sản tới mức mà sau lưng tôi, các bạn học gọi tôi là “Mụ Marx Già”. Năm 1998, tôi nhận bằng tiến sĩ và gia nhập đội ngũ giảng viên của trường.
Một số học trò của tôi là sinh viên cao học bình thường, những người đang giảng dạy học thuyết chính trị Marxist và lịch sử đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng những người khác là cán bộ đảng trung – cao cấp; kể cả lãnh đạo chính quyền các tỉnh, thành phố và các bộ trưởng trong chính phủ. Vài học viên của tôi là ủy viên Ủy ban Trung ương đảng Cộng sản, cơ quan có chừng vài trăm đại biểu ngồi trên đỉnh quyền lực của đảng và phê chuẩn các quyết định quan trọng.
Dạy ở Trường Đảng Trung ương không phải là việc dễ. Máy quay video trong các phòng học ghi lại bài giảng của chúng tôi để cấp trên xem lại. Chúng tôi phải làm cho môn học trở nên sinh động, không được diễn giải học thuyết quá linh hoạt hoặc lôi kéo sự chú ý vào các điểm yếu của học thuyết. Thường thường, chúng tôi phải nghĩ ra những câu trả lời khôn ngoan cho những câu hỏi khó mà các quan chức-học viên trong lớp đặt ra.
Đa số những câu hỏi của họ xoay quanh những mâu thuẫn khó hiểu trong ý thức hệ chính thống, vốn được soạn thảo để biện minh cho các chính sách mà đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện trong thực tiễn. Một sửa đổi bổ sung vào hiến pháp Trung Quốc năm 2004 nói rằng, chính phủ bảo vệ nhân quyền và quyền tư hữu. Nhưng thế thì quan điểm của Marx rằng hệ thống cộng sản chủ nghĩa bãi bỏ quyền sở hữu tư nhân sẽ thế nào? Đặng muốn “cho phép một bộ phận dân chúng giàu lên trước” để động viện nhân dân và kích thích năng suất. Điều đó làm sao phù hợp với lời hứa của Marx rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ cung cấp cho mỗi người tùy theo nhu cầu?
Tôi vẫn trung thành với đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng thôi thường xuyên nghi vấn niềm tin của chính mình. Trong thập niên 1980, giới học thuật Trung Quốc đã có cuộc tranh luận sinh động về “Chủ nghĩa nhân đạo Marxist” – một dòng tư tưởng Marxist nhấn mạnh vào sự phát triển toàn diện của cá nhân con người. Vài học giả tiếp tục cuộc tranh luận đó trong thập niên 1990 dù quy mô của sự thảo luận có thể chấp nhận được đã bị thu hẹp. Tôi nghiên cứu Bản thảo Kinh tế và Triết học năm 1844 của Marx, trong đó nói mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng cá nhân. Tôi tán thành các nhà triết học Marxist nhấn mạnh vào tự do – nổi bật nhất là Antonio Gramsci và Herbert Marcuse.
Ngay từ luận án thạc sĩ, tôi đã phê phán ý tưởng con người luôn luôn nên hy sinh quyền lợi cá nhân để phục vụ đảng. Trong luận văn tiến sĩ, tôi thách thức câu khẩu hiệu cổ Trung Quốc “quốc phú binh cường” bằng lập luận rằng Trung Quốc chỉ có thể hùng mạnh nếu đảng cho phép công dân được giàu có. Giờ đây tôi đưa lập luận này lên một bước xa hơn. Trong các bài nghiên cứu và trò chuyện, tôi cho rằng doanh nghiệp nhà nước đã thống trị quá đáng nền kinh tế Trung Quốc, và cần cải cách sâu rộng hơn nữa để cho phép các công ty tư nhân cạnh tranh. Tôi nhấn mạnh, không nên coi tham nhũng chỉ là sự thất bại về đạo đức của cá nhân cán bộ mà phải là vấn đề có tính hệ thống sinh ra từ sự quản lý chặt của chính phủ đối với nền kinh tế.
Lý thuyết và thực tiễn
Suy nghĩ của tôi có vẻ như phù hợp một phần với suy nghĩ của người kế vị ông Đặng, ông Giang Trạch Dân (Jiang Zemin). Quyết tâm phát triển kinh tế Trung Quốc, ông Giang đã tìm cách kích thích doanh nghiệp tư nhân và đưa Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại thế giới. Nhưng những chính sách này mâu thuẫn với học thuyết thâm căn cố đế của đảng Cộng sản Trung Quốc coi trọng nền kinh tế kế hoạch hóa và sự tự túc quốc gia. Bởi vì học thuyết của Marx, của Mao hoặc của Đặng đều không giải quyết được những mâu thuẫn này, Giang cảm thấy cần thiết phải đưa ra một cái gì đó mới mẻ. Ông ta gọi đó là thuyết “Ba Đại Diện”.
Tôi được nghe về học thuyết mới này lần đầu là cùng với mọi người. Buổi tối ngày 25 tháng Hai năm 2000, tôi xem Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) tường thuật về thuyết Ba Đại Diện. Ông Giang nói, đảng phải đại diện cho ba phương diện của Trung Quốc: “những yêu cầu phát triển của các lực lượng sản xuất tiên tiến”, tiến bộ văn hóa và quyền lợi của đa số. Là giáo sư Trường Đảng Trung ương, tôi lập tức hiểu rằng học thuyết này báo hiệu một sự chuyển dịch quan trọng trong ý thức hệ của ĐCSTQ. Đặc biệt, điểm thứ nhất trong Ba Đại Diện ám chỉ rằng Giang đang từ bỏ tín điều cốt lõi của chủ nghĩa Marx rằng các nhà tư bản là một nhóm xã hội bóc lột. Thay vì vậy, Giang mở cửa đảng cho hàng ngũ của họ – một quyết định mà tôi tán thành.
Ban Tuyên Giáo Trung ương, cơ quan phụ trách công tác tư tưởng của ĐCSTQ, chịu trách nhiệm quảng bá học thuyết mới của Giang, nhưng họ có một vấn đề: Học thuyết Ba Đại Diện đang bị giới cực hữu tấn công. Giới này nghĩ rằng Giang đã đi quá xa trong việc dụ dỗ giới doanh nhân. Hy vọng né tránh cuộc xung đột này, Ban Tuyên Giáo chọn cách làm nhẹ đi lý thuyết Ba Đại Diện. Tờ Nhân Dân nhật báo đăng một bài dài nguyên trang chứng minh tính đúng đắn của thuyết Ba Đại Diện với nhiều trích dẫn tham khảo từ các văn bản của Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao và Đặng.
Tôi thấy làm như vậy không thuyết phục. Mục đích của thuyết Ba Đại Diện là gì nếu nó chỉ nhắc lại hệ tư tưởng sẵn có? Tôi khinh ghét cách làm thiển cận của guồng máy tuyên truyền của đảng. Tôi quyết tâm trình bày ý nghĩa thật sự của thuyết Ba Đại Diện, một học thuyết mà trong thực tế đã đánh dấu một sự khởi đầu can đảm cho Trung Quốc. Chuyện này hóa ra lại đưa tôi vào cuộc xung đột với guồng máy quan liêu thâm căn cố đế của ĐCSTQ.
Giới tinh hoa vô học
Cơ hội cho tôi quảng bá sự hiểu biết đúng đắn về thuyết Ba Đại Diện đến vào năm 2001, khi Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), sau khi nghe một đồng nghiệp nói rằng tôi quan tâm đặc biệt tới học thuyết mới của Giang, đã mời tôi viết kịch bản một chương trình truyền hình về học thuyết đó. Tôi bỏ ra sáu tháng nghiên cứu và viết kịch bản phim tài liệu; tôi thảo luận rất kỹ với các nhà sản xuất ở mạng lưới truyền hình. Kịch bản của tôi nhấn mạnh vào nhu cầu phải có những chính sách canh tân mới để đáp ứng những thách thức của một thời đại mới: Tôi nhấn mạnh vào điều mà ông Giang nhấn mạnh: đó là, giờ đây chính phủ sẽ phải giảm can thiệp vào nền kinh tế và vai trò của đảng không còn là làm cuộc cách mạng bạo lực chống lại giai cấp tư sản bóc lột – thay vì vậy đảng phải khuyến khích việc tạo ra của cải và cân bằng lợi ích của các thành phần khác nhau trong xã hội.
Vào buổi chiều ngày 16 tháng Sáu, bốn phó chủ tịch cấp cao của CCTV họp trong một phòng thu tại đại bản doanh của mạng truyền hình để xem xét ba tập phim mỗi tập 30 phút. Khi họ xem phim, mặt họ tối sầm lại: “Dừng ở đây,” một người trong bọn họ nói khi tập phim thứ nhất kết thúc.
“Giáo sư Thái, bà có biết tại sao bà được mời sản xuất một chương trình về thuyết Ba Đại Diện không?” ông ta hỏi. “Đảng đang đưa ra một học thuyết tư tưởng mới, và chúng ta cần quảng bá nó”, tôi đáp. Quan chức này không nao núng. “Nghiên cứu và canh tân của bà có thể được trình bày ở Trường Đảng Trung ương, nhưng truyền hình chỉ trình chiếu những nội dung an toàn nhất,” ông ta nói. Tại thời điểm đó, không ai biết chắc chắn học thuyết Ba Đại Diện cuối cùng có nghĩa là gì, và ông ta lo ngại rằng kịch bản của tôi có thể lạc điệu với quan điểm của Ban Tuyên Giáo. “Nếu có bất kỳ sự khác biệt nào thì hậu quả sẽ hết sức lớn,” ông ta nói.
Một quan chức điều hành khác của Đài chen vào. “Năm nay là kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc!” ông ta kêu lên. Một dịp kỷ niệm như vậy cần ca tụng những chiến thắng hào hùng của đảng chứ không phải là thảo luận về những thách thức mà đảng đang đối mặt. Vào lúc ấy, tôi chợt hiểu. Những quan chức của CCTV không quan tâm tới ý nghĩa thật sự của ý thức hệ. Họ chỉ muốn làm cho đảng có vẻ tốt đẹp và lấy lòng cấp trên của họ.
Trong mười ngày tiếp theo đó, chúng tôi mò mẫm sửa lại phim tài liệu. Chúng tôi cắt bỏ những từ ngữ, câu cú có khả năng gây phản ứng; chúng tôi làm việc cả ngày lẫn đêm trong lúc kịch bản của tôi phải trải qua vài cuộc thẩm định về chính trị, do các nhóm từ khắp guồng máy đảng thực hiện. Cuối cùng, khoảng một tá quan chức đến dự buổi thẩm định cuối cùng, trong đó tôi được biết nhiều hơn về tính chất đạo đức giả của đảng. Tại một điểm, một thành viên cao cấp của ủy ban thẩm định phát biểu ý kiến. Trong tập phim thứ hai của bộ phim tài liệu, tôi có trích dẫn hai câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình vốn thường được liên kết với nhau: “Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội; phát triển là một sự thật khó khăn”.
“Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội à?” vị quan chức nêu câu hỏi một cách hồ nghi. “Thế thì chủ nghĩa xã hội là gì?” Ông ta tiếp tục phê phán, càng lúc càng lớn tiếng. “Và phát triển là sự thật khó khăn à? Hai câu này liên quan với nhau thế nào? Nói tôi biết xem!”
Tôi chết điếng vì kinh ngạc. Đây là lời chính xác của Đặng, còn quan chức cao cấp này – lãnh đạo Cục Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình Nhà nước, cơ quan có quyền giám sát tất cả các phương tiện truyền thông – lại không biết tới ư? Tôi lập tức nghĩ tới lời phê phán của Mao đối với guồng máy quan liêu thời Cách mạng Văn hóa: “Họ không đọc sách, và họ cũng không đọc báo.”
Hệ tư tưởng trống rỗng
Trong suốt năm 2001, một phần trong nỗ lực quảng bá học thuyết độc đáo của Giang, Ban Tuyên Giáo bắt đầu biên soạn một bản đề cương nghiên cứu thuyết Ba Đại Diện – một bản tóm tắt sẽ được phát hành như là một tài liệu của Ban Chấp hành Trung ương mà toàn đảng phải đọc và thực hiện. Có lẽ vì tôi đã làm chương trình trên CCTV và đã đọc tham luận về thuyết Ba Đại Diện tại một hội nghị khoa học, họ yêu cầu tôi giúp.
Cùng với một học giả khác và 19 quan chức tuyên giáo, tôi được gửi tới trung tâm huấn luyện của Ban Tuyên Giáo trong vùng bán sơn địa phía tây Bắc Kinh. Ban đã vạch ra một dàn ý tổng quát của bản đề cương và bây giờ họ yêu cầu chúng tôi lấp nội dung vào cái dàn ý đó. Nhiệm vụ của tôi là biên soạn phần về xây dựng đảng.
Soạn thảo tài liệu cho Ban Chấp hành Trung ương là một công việc có độ bí mật cao. Các đồng nghiệp của tôi và tôi bị cấm rời khỏi khu nhà, và cũng không được tiếp khách. Khi Ban Tuyên Giáo triệu tập cuộc họp thì những ai không được mời sẽ không được hỏi về cuộc họp đó. Chúng tôi, những người soạn thảo, được ăn ở và đi dạo cùng nhau nhưng bị cấm thảo luận về công việc của từng người. Tôi là phụ nữ duy nhất trong nhóm. Trong bữa ăn tối đàm đàn ông tán gẫu và kể chuyện tiếu lâm. Tôi thấy những cuộc trò chuyện có hơi men và nhạt nhẽo đó thật dung tục và luôn bỏ ra ngoài chỉ sau khi ăn vài đũa. Cuối cùng, một người khác trong nhóm kéo tôi ra ngoài. Anh ta giải thích, nói chuyện về công việc chính thức chỉ làm chúng tôi gặp rắc rối, cho nên chỉ nói chuyện về tình dục sẽ an toàn hơn, vui vẻ hơn.
Giúp soạn đề cương nghiên cứu là nhiệm vụ viết lách quan trọng nhất trong đời tôi nhưng đó cũng là công việc nhố nhăng nhất. Công việc của tôi là đọc hàng đống tài liệu ghi lại những ý nghĩ của Giang Trạch Dân, kể cả những bài phát biểu mật và những văn bản chỉ lưu hành nội bộ. Sau đó tôi sẽ rút ra những trích dẫn phù hợp và đặt chúng vào nhiều đề mục nhỏ và ghi nguồn. Tôi không thể thêm bớt văn bản, nhưng tôi có thể đổi dấu chấm thành dấu phẩy và nối kết câu trích này với câu trích kia. Tôi ngạc nhiên thấy lời giải thích chính thức cho một trong những chiến dịch ý thức hệ quan trọng nhất của đảng thời kỳ hậu Mao Trạch Đông chỉ là công việc cắt dán.
Bởi vì nhiệm vụ quá dễ dàng, tôi dùng nhiều thời gian chờ đợi trong nỗi chán chường chờ công việc của tôi được xem xét. Một hôm tôi hỏi một thành viên khác, một giáo sư từ Đại học Nhân dân Trung Quốc: “Có phải chúng ta chỉ đang tạo ra một phiên bản khác của Mao Trạch Đông ngữ lục?” tôi muốn nói tới cuốn Sách Đỏ Nhỏ – cuốn sách bỏ túi ghi những câu châm ngôn của Mao bị rút ra khỏi văn cảnh của chúng, được lưu hành trong suốt thời Cách mạng Văn hóa. Ông giáo sư nhìn quanh và bật cười gượng gạo. “Đừng lo. Chúng mình đang ở một nơi cảnh sắc tuyệt vời, thức ăn ngon và những chuyến đi dạo thú vị. Chúng mình biết tìm đâu một kỳ nghỉ dưỡng thoải mái thế này? Hãy tìm một cuốn sách mà đọc. Vấn đề chỉ là mình có mặt ở đây mỗi khi họ gọi mình đi họp,” ông ta bảo tôi.
Tháng Sáu năm 2003 một hội nghị báo chí được tổ chức tại Đại sảnh đường Nhân dân ở Bắc Kinh để công bố đề cương nghiên cứu và tất cả chúng tôi, những người đã góp phần soạn thảo nó, đều được yêu cầu tham dự. Ông Lưu Vân Sơn (Liu Yunshan), ủy viên Bộ Chính Trị và lãnh đạo Ban Tuyên Giáo, trình bày báo cáo. Lúc ông ấy và các quan chức khác ngồi trên sân khấu, tôi cảm thấy một cảm giác nặng nề. Hiểu biết của tôi về thuyết Ba Đại Diện như là một bước ngoặt quan trọng trong ý thức hệ của đảng cầm quyền đã hoàn toàn bị loại ra khỏi tài liệu và bị thay bằng một thứ gì đó nhạt nhẽo, vô vị. Nhớ lại những cuộc tán gẫu dâm đãng quanh bàn ăn tối mỗi đêm, lần đầu tiên tôi cảm nhận rằng cái hệ thống mà từ lâu tôi coi là thiêng liêng thực ra đã phi lý không thể chịu đựng nổi.
Ý tưởng để bán
Kinh nghiệm của tôi về bản đề cương nghiên cứu dạy cho tôi rằng những ý tưởng mà đảng hô hào quảng bá một cách khoa trương thực ra chỉ là những công cụ dùng để lừa bịp nhân dân Trung Quốc. Chẳng bao lâu sau tôi hiểu ra rằng chúng cũng là một cách thức để làm tiền. Một quan chức mà tôi biết ở Tổng cục Báo chí và Xuất bản, cơ quan kiểm soát quyền xuất bản sách và tạp chí, kể tôi nghe một câu chuyện đáng buồn về cuộc tranh giành doanh thu xuất bản trong nội bộ ĐCSTQ.
Trong nhiều năm, nhà xuất bản Hồng Kỳ là một trong ba tổ chức chịu trách nhiệm xuất bản sách giáo dục của đảng. Năm 2005, nhà xuất bản đang chuẩn bị đưa ra một cuốn sách thông thường thì một quan chức của Ban Tổ chức Trung ương, cơ quan đầy quyền lực chịu trách nhiệm về các quyết định nhân sự của ĐCSTQ, nhảy vào và nhấn mạnh rằng chỉ có ban của ông ta mới có thẩm quyền xuất bản một cuốn sách như vậy. Ông ta cố buộc Tổng cục Báo chí và Xuất bản ngăn cản việc xuất bản cuốn sách đó. Nhưng nhiệm vụ chính của nhà xuất bản Hồng Kỳ chính là xuất bản sách về ý thức hệ. Để thoát ra khỏi cuộc tranh giành rối rắm này, Tổng cục đã xem xét cuốn sách với hy vọng sẽ tìm ra những vấn đề có thể biện minh cho việc cấm xuất bản – nhưng thật khó xử, họ đã không tìm được gì.
Tại sao Ban Tổ chức xen vào việc xuất bản sách? Tất cả chỉ vì tiền. Nhiều ban ngành có những quỹ đen, dùng cho việc thụ hưởng xa hoa của các quan chức cao cấp và chia cho nhân viên như là “phụ cấp phúc lợi”. Cách dễ dàng nhất để kiếm tiền cho các quỹ này là xuất bản sách. Vào thời đó, ĐCSTQ có hơn 3,6 triệu tổ chức cơ sở đảng; dự tính mỗi cơ sở phải mua một bản của cuốn sách mới. Nếu cuốn sách được bán với giá 10 tệ một bản thì có nghĩa doanh thu bán sách tối thiểu phải là 36 triệu tệ – tương đương khoảng 5 triệu Mỹ kim hiện nay. Bởi vì tiền mua sách được lấy từ ngân sách của đảng bộ cơ sở, thực chất của việc mua sách này là buộc một tổ chức công phải trả tiền cho một tổ chức công khác. Bởi vậy đừng ngạc nhiên khi thấy mỗi năm Ban Tổ chức lại đề ra một chủ đề giáo dục chính trị mới. Và đừng ngạc nhiên khi thấy hầu như mọi định chế trong ĐCSTQ đều có bộ phận xuất bản. Khi mà hầu hết các đơn vị đều phát minh ra những cách thức mới để kiếm tiền thì tính chất dễ bị hối lộ đã thấm sâu vào chế độ.
Mặc dù sự vỡ mộng của tôi tăng lên, tôi vẫn không hoàn toàn từ bỏ đảng Cộng sản. Cùng với nhiều học giả bên trong đảng, tôi vẫn hy vọng ĐCSTQ sẽ chấp nhận cải cách và đi về hướng một hình thức dân chủ nào đó. Trong những năm cuối của thời kỳ Giang Trạch Dân, đảng bắt đầu chấp nhận nới lỏng tương đối cuộc thảo luận nội bộ về những vấn đề nhạy cảm, chừng nào các cuộc thảo luận đó không công khai cho dân chúng. Tại Trường Đảng Trung ương, các giáo sư đồng đội và tôi cảm thấy được tự do nêu lên giữa chúng tôi những vấn đề sâu kín trong hệ thống chính trị Trung Quốc. Chúng tôi nói về tiết giảm vai trò của cán bộ đảng trong việc quyết định những vấn đề hành chính mà các quan chức chính quyền xử trí tốt hơn. Chúng tôi thảo luận ý tưởng về tính độc lập của tư pháp, điều đã ghi trong hiến pháp nhưng không bao giờ thực hiện trong thực tế.
Chúng tôi vui mừng khi thấy trong thực tế đảng đã thử nghiệm chế độ dân chủ, cả trong hoạt động của đảng lẫn trong xã hội ở cấp cơ sở. Tôi nhìn tất cả những chuyện này như là dấu hiệu đầy hy vọng của sự tiến bộ. Nhưng những biến cố sau đó chỉ củng cố thêm sự vỡ mộng của tôi mà thôi.
Con đường khác
Điểm thay đổi quyết định xảy ra vào năm 2008 khi tôi có chuyến đi ngắn nhưng có tính quyết định đến Tây Ban Nha. Thăm viếng đất nước đó là một phần của việc trao đổi học thuật, tôi đã học được bằng cách nào mà Tây Ban Nha đã chuyển mình từ chế độ chuyên chế sang chế độ dân chủ sau cái chết của nhà độc tài Francisco Franco năm 1975. Tôi không thể không so sánh kinh nghiệm Tây Ban Nha với kinh nghiệm Trung Quốc. Mao chết chỉ sau Franco mười tháng và cả hai nước đều trải qua những thay đổi to lớn trong ba thập niên sau đó. Nhưng trong khi Tây Ban Nha thực hiện cú nhảy sang chế độ dân chủ một cách nhanh chóng và hòa bình và đạt được sự ổn định xã hội lẫn sự thịnh vượng kinh tế thì Trung Quốc chỉ chuyển biến một phần, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang một nền kinh tế hỗn hợp mà không tự do hóa chính trị. Tây Ban Nha có thể dạy Trung Quốc điều gì?
Tôi đi đến một kết luận bi quan rằng ĐCSTQ không muốn cải cách chính trị. Thứ nhất cuộc chuyển hóa của Tây Ban Nha được khởi động bởi các lực lượng cải cách trong chế độ thời hậu Franco, chẳng hạn như Quốc vương Juan Carlos Đệ Nhất, người đặt lợi ích quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân. ĐCSTQ, giành được quyền lực năm 1949 thông qua bạo lực, đã gắn bó sâu sắc với ý tưởng rằng đảng được độc quyền vĩnh viễn về quyền lực chính trị. Hồ sơ của đảng, đặc biệt là vụ đàn áp cuộc biểu tình ở Thiên An Môn, chứng tỏ rằng đảng sẽ không từ bỏ quyền lực một cách hòa bình. Và không nhà lãnh đạo nào thời hậu ông Đặng có can đảm thúc đẩy cải cách chính trị, họ chỉ đơn giản muốn đẩy gánh nặng cho các nhà lãnh đạo tương lai.
Tôi cũng học được rằng sau cái chết của Franco, Tây Ban Nha nhanh chóng tạo ra một môi trường thuận lợi cho cải cách, củng cố tính độc lập của tư pháp, mở rộng quyền tự do báo chí. Tây Ban Nha thậm chí còn kết hợp các lực lượng đối lập vào tiến trình chuyển tiếp. ĐCSTQ trái lại đã đối xử với những đòi hỏi về công bằng xã hội và công bằng kinh tế như là những mối đe dọa tới quyền lực của nó, đàn áp xã hội dân sự và hạn chế quyền tự do của người dân. Chế độ và nhân dân đã lâm vào tình trạng đối đầu trong nhiều thập niên, làm cho việc hòa giải hòa hợp là không thể hình dung được.
Hiểu biết mà tôi mới tiếp thu được về cuộc chuyển hóa dân chủ ở Tây Ban Nha, cùng với những điều tôi đã biết về chuyển hóa dân chủ ở các nước khối Xô Viết cũ, đã đưa tôi tới sự từ bỏ về căn bản hệ tư tưởng Marxist mà tôi đã một thời đặt vào đó niềm tin không thể lay chuyển. Tôi bắt đầu nhận ra rằng những học thuyết mà Marx thúc đẩy trong thế kỷ mười chín đã bị giới hạn bởi tri thức của ông và hoàn cảnh lịch sử của thời đại ông. Hơn thế nữa, tôi nhìn thấy phiên bản chủ nghĩa Marx được tập trung hóa cao độ và đàn áp mà ĐCSTQ quảng bá thì mang nợ của Stalin hơn là của Marx. Càng ngày tôi càng nhận ra nó như là một hệ tư tưởng được hình thành để phục vụ cho lợi ích của chế độ độc tài. Tôi bắt đầu nói bóng gió trong các bài giảng và bài viết của mình rằng không nên tôn thờ chủ nghĩa Marx như một chân lý tuyệt đối và Trung Quốc nên bắt đầu cuộc hành trình tới thể chế dân chủ. Năm 2010, khi một số học giả có khuynh hướng tự do xuất bản một tuyển tập gọi là Tiến tới Chủ nghĩa Hợp hiến, tôi đã đóng góp một bài bàn về kinh nghiệm Tây Ban Nha.
Tầm nhìn của tôi – được chia sẻ với các học giả tự do khác – là Trung Quốc phải bắt đầu thực hiện dân chủ bên trong đảng, mà trong dài hạn, sẽ dẫn tới một chế độ dân chủ lập hiến. Trung Quốc phải có một nghị viện, thậm chí một đảng đối lập thực sự. Trong thâm tâm, tôi lo ngại rằng ĐCSTQ sẽ chống lại một cách quyết liệt một cuộc chuyển hóa kiểu như vậy, nhưng tôi giữ kín ý nghĩ đó cho riêng mình. Thay vào đó, khi nói chuyện với các đồng nghiệp và sinh viên, tôi chỉ lập luận rằng một cuộc chuyển hóa như vậy sẽ là tốt cho Trung Quốc, thậm chí sẽ tốt cho chính đảng cộng sản, vì đảng có thể củng cố tính chính danh của mình bằng cách làm cho đảng có trách nhiệm giải trình với nhân dân hơn. Nhiều quan chức mà tôi dạy công nhận rằng đảng đang đối mặt với những vấn đề nhưng họ không thể tự mình nói ra điều đó. Thay vì vận họ thận trọng khuyến khích thôi thuyết phục cấp trên của họ.
Thất vọng với Tập Cận Bình
Vấn đề là ngay chính vào thời điểm ấy, người kế vị của Giang, Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) lại đi theo hướng ngược lại. Năm 2003, trong quá trình thâu tóm quyền lực, Hồ đã đưa ra lý thuyết “Tầm nhìn Khoa học về Phát triển” thay thế cho thuyết Ba Đại Diện của Giang. Quan niệm này là một nỗ lực nữa nhằm biện hộ cho mô hình phát triển hỗn hợp của Trung Quốc với một lớp vỏ mỏng là hệ tư tưởng có âm hưởng Marxist và né tránh những vấn đề lớn mà Trung Quốc đang đối đầu. Sự phát triển thần tốc của Trung Quốc đã sản sinh ra mâu thuẫn xã hội như ruộng đất của nông dân bị tước đoạt cho phát triển và các nhà máy bóc lột công nhân để tăng thêm lợi nhuận. Số người khiếu nại đòi chính phủ bồi thường gia tăng một cách ngoạn mục, và trong cả nước số vụ biểu tình cuối cùng đã vượt qua con số 100.000 vụ mỗi năm. Đối với tôi, sự bất mãn cho thấy rằng Trung Quốc ngày càng khó phát triển kinh tế mà không tự do hóa chính trị.
Hồ nghĩ khác. “Đừng làm rối mọi chuyện,” ông ta nói năm 2008 trong buổi lễ kỷ niệm 30 năm chính sách cải cách và mở cửa. Tôi hiểu câu nói này có nghĩa là những cải cách về kinh tế, chính trị và ý thức hệ mà đảng đã thực hiện cho tới đó cần phải được duy trì chứ không thúc đẩy thêm nữa. Hồ đang tự bảo vệ mình chống lại những lời tố cáo từ cả hai phía: từ những người bảo thủ nghĩ rằng cải cách đã đi quá xa, và từ những người tự do nghĩ rằng cải cách đã đi không đủ xa. Thế là Trung Quốc, dưới sự giám sát của ông Hồ, đã đi vào một giai đoạn trì trệ về chính trị, một cuộc suy thoái tương tự như những gì mà Liên Xô trải qua dưới thời ông Leonid Brezhnev.
Chính vì thế, tôi nhìn ông Tập với niềm lạc quan khi đã rõ rằng ông ta sẽ nắm quyền. Tất cả những cuộc cải cách dễ dàng đã được thực hiện từ 30 năm về trước, bây giờ là lúc những cải cách khó khăn hơn. Do danh tiếng của thân phụ Tập, một cựu lãnh đạo ĐCSTQ có khuynh hướng tự do và phong cách linh hoạt mà bản thân Tập thể hiện trong những chức vụ trước, tôi và những người khác ủng hộ cải cách đã hy vọng nhà lãnh đạo mới của chúng tôi sẽ có dũng khí thi hành những sự thay đổi táo bạo cho hệ thống chính trị Trung Quốc. Nhưng không phải ai cũng có niềm tin như vậy vào Tập. Những người hoài nghi mà tôi biết chia thành hai nhóm. Và cả hai đều chứng tỏ họ có tầm nhìn tiên tri.
Nhóm thứ nhất bao gồm các thái tử đảng – là con cái của những nhà sáng lập ĐCSTQ. Tập là một thái tử đảng, cũng như Bạc Hy Lai (Bo Xilai), nhà lãnh đạo năng động của đảng bộ Trùng Khánh. Tập và Bạc vươn lên các chức vụ cao ở cấp tỉnh và cấp bộ gần như cùng một lúc và cả hai đều được kỳ vọng sẽ tham gia cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ – Ban Thường vụ Bộ Chính Trị, và là những ứng viên hàng đầu sẽ lãnh đạo Trung Quốc. Nhưng Bạc sớm rớt khỏi cuộc tranh quyền lãnh đạo năm 2012 khi ông ta dính líu vào vụ vợ ông chủ mưu ám sát một doanh nhân người Anh, và các chính trị gia lão thành của đảng ủng hộ một ông Tập an toàn hơn, kiên định hơn. Những thái tử đảng mà tôi biết, quen với tính tàn nhẫn của Tập, dự báo rằng cuộc tranh giành Bạc-Tập sẽ không chấm dứt ở đó. Thật vậy, sau khi Tập nắm được quyền lực, Bạc bị kết tội tham nhũng, bị tịch thu toàn bộ tài sản và bị kết án tù chung thân.
Một nhóm khác những người hoài nghi bao gồm các học giả có uy tín. Hơn một tháng trước ngày khai mạc Đại hội Đảng lần thứ 18 vào tháng 11 năm 2012, khi Tập sẽ chính thức được giới thiệu là tân Tổng bí thư ĐCSTQ, tôi có dịp trò chuyện với một phóng viên kỳ cựu của một tạp chí lớn của Trung Quốc, và một giáo sư hàng đầu của trường tôi, người đã theo dõi sự nghiệp của Tập trong một thời gian dài. Hai người này vừa kết thúc một buổi phỏng vấn, và trước khi chia tay, người phóng viên ném ra một câu hỏi cuối: “Tôi nghe nói Tập Cận Bình sống trong khu gia cư của Trường Đảng Trung ương một thời gian. Nay ông ta sắp trở thành tổng bí thư của đảng. Giáo sư nghĩ sao về ông ta?” Đôi môi của vị giáo sư nhíu lại và ông nói với vẻ khinh miệt rằng Tập đau khổ vì “kiến thức không đầy đủ”. Người phóng viên và tôi giật mình với lời đánh giá thẳng thừng đó.
Bất chấp những quan điểm tiêu cực như vậy, tôi vẫn tự nguyện gạt sang một bên sự bất tín và đặt hy vọng vào ông Tập. Nhưng chẳng bao lâu sau cuộc nổi lên của Tập, tôi bắt đầu có những nỗi nghi ngờ của chính mình. Một bài diễn văn mà ông ta đọc vào tháng 12 năm 2012 cho thấy một nhà cải cách và một tinh thần tiến bộ, nhưng những tuyên bố khác lại ám chỉ một cuộc đi giật lùi về thời trước cải cách. Ông Tập đang đi về cánh tả hay cánh hữu? Tôi mới vừa nghỉ hưu khỏi Trường Đảng Trung ương, nhưng vẫn giữ liên lạc với các đồng nghiệp cũ. Có lần khi tôi trò chuyện với vài người trong bọn họ về các kế hoạch của Tập, một người trong bọn nói: “Vấn đề không phải là Tập đi theo hướng tả hay hữu mà là ở chỗ ông ta thiếu óc phán đoán căn bản và nói năng phi logic”. Mọi người rơi vào im lặng. Tôi lạnh cả sống lưng. Với những khiếm khuyết như thế, làm sao chúng tôi có thể kỳ vọng ông ta sẽ dẫn dắt cuộc chiến đấu để cải cách chính trị?
Chẳng bao lâu sau tôi đi đến kết luận là chúng tôi không nên kỳ vọng. Sau khi ông Tập công bố kế hoạch cải cách toàn diện cuối năm 2013, giới kinh doanh và học thuật thích thú dự đoán rằng ông ta sẽ thúc đẩy các cuộc cải cách lớn. Tôi có cảm giác trái ngược hẳn. Kế hoạch đã né tránh tất cả những vấn đề cốt yếu của cải cách chính trị. Những vấn đề lâu đời của Trung Quốc về tham nhũng, nợ công quá cao, và các doanh nghiệp nhà nước không có lợi nhuận đã bén rễ từ lâu trong quyền lực chính thức của đảng được can thiệp vào các quyết định kinh tế mà không có sự giám sát của công chúng. Cố gắng tự do hóa nền kinh tế trong lúc siết chặt quyền kiểm soát chính trị là một mâu thuẫn. Tuy nhiên Tập đang phát động một chiến dịch tư tưởng lớn nhất kể từ sau cái chết của Mao để làm sống lại sự cai trị theo chủ nghĩa Mao. Kế hoạch của ông ta kêu gọi tăng cường giám sát xã hội và dập tắt tự do biểu đạt. Một lệnh cấm mọi cuộc thảo luận về chế độ dân chủ hợp hiến và những giá trị phổ quát đã được quảng bá một cách trơ trẽn dưới danh nghĩa “quản trị, quản lý, dịch vụ và luật pháp”.
Xu hướng này tiếp tục với một gói các cải cách luật pháp được thông qua năm 2014, phơi bày đầy đủ hơn nữa ý định của đảng sử dụng luật pháp làm công cụ để duy trì sự cai trị của chế độ toàn trị. Vào lúc này, các khuynh hướng ngoan cố của Tập và sự đàn áp chính trị của ĐCSTQ đã quá rõ ràng. Nếu như có thời tôi có niềm hy vọng mơ hồ ở Tập và ở đảng thì các ảo mộng của tôi bây giờ đã tan vỡ. Những biến cố liên tiếp sau đó chỉ khẳng định rằng, khi liên quan tới cải cách thì Tập đã đưa Trung Quốc từ trì trệ tới suy thoái. Năm 2015, đảng vây bắt hàng trăm luật sư. Năm sau đó, đảng khởi động một chiến dịch kiểu Cách mạng Văn hóa chống lại một tỷ phú bất động sản hay nói thẳng. Phản ứng của tôi đối với sự kiện đó đã đẩy tôi vào vùng nước nóng.
Cọng rơm cuối cùng
Tỷ phú bất động sản đó, ông Nhậm Chí Cường (Ren Zhiqiang), đã ngày càng xung khắc với ông Tập, người bị ông phê phán đã kiểm duyệt truyền thông Trung Quốc. Tháng Hai năm 2016, website ĐCSTQ chụp mũ Nhậm là “chống đảng”. Tôi không biết rõ Nhậm nhưng trường hợp của ông làm tôi chấn động mạnh bởi vì từ lâu tôi đã dựa vào một nguyên tắc rằng trong nội bộ ĐCSTQ chúng tôi được phép – thậm chí được khuyến khích – phát biểu tự do để giúp cho đảng sửa chữa sai lầm. Ông Nhậm là một đảng viên lâu năm đã bị biến thành quỷ chỉ vì làm đúng như thế. Đã từng sống qua thời Cách mạng Văn hóa, tôi biết những người bị chụp mũ “chống đảng” sẽ bị tước đoạt mọi quyền và bị ngược đãi khủng khiếp. Bởi vì lời bào chữa cho Nhậm sẽ không bao giờ được đăng trên truyền thông bị kiểm duyệt, tôi đã viết một bài biện hộ và đăng trong một nhóm thảo luận trên mạng WeChat, hy vọng bạn bè của tôi sẽ chia sẻ nó với các bạn bè của họ. Bài của tôi được phát tán rộng.
Mặc dù phần lớn bài viết của tôi chỉ trích dẫn hiến pháp và điều lệ của đảng, ủy ban kỷ luật của Trường Đảng Trung ương đã cáo buộc tôi nhiều lỗi lầm trầm trọng. Tôi phải đối mặt với hàng loạt cuộc thẩm vấn đầy đe dọa trong đó những người thẩm vấn tôi sử dụng áp lực tâm lý và đặt ra những chiếc bẫy ngôn từ trong cố gắng có được lời thú nhận sai lầm về những sai phạm của tôi. Thật hết sức khó chịu nhưng tôi nhận ra quy trình này là một thử thách tâm lý. Tôi nhận ra rằng nếu tôi không biểu lộ sợ hãi họ sẽ đánh mất một nửa cuộc chiến. Và thế là một tình huống bế tắc diễn ra: tôi cứ tiếp tục đăng bài, và chính quyền cứ tiếp tục gọi tôi đến thẩm vấn. Chẳng bao lâu sau, tôi rút ra rằng các cơ quan an ninh đang nghe lén điện thoại của tôi, đọc thư tín điện tử của tôi và đi theo tôi để biết tôi đi đâu, gặp ai. Các giáo sư đã nghỉ hưu của Trường Đảng Trung ương thường chỉ phải xin phép nhà trường để đi sang Hồng Kông hoặc ra nước ngoài nhưng bây giờ nhà trường ám chỉ rằng trong tương lai tôi phải báo cáo Bộ Công An để họ duyệt những chuyến đi như vậy.
Tháng Tư năm 2016, văn bản của một bài diễn văn mà tôi đã đọc mấy tháng trước tại Đại học Thanh Hoa (Tsinghua University) trong đó tôi lập luận rằng nếu ý thức hệ vi phạm vào lẽ phải thông thường thì nó hạ cấp thành lời dối trá – được đăng tải trên một website có ảnh hưởng ở Hồng Kông. Thời điểm thật tồi tệ: Tập chỉ mới vừa công bố rằng một số cuộc hỏi đáp tự do diễn ra ở Trường Đảng Trung ương đã đi quá xa và ông ta thúc giục phải giám sát kỹ hơn các giáo sư của trường. Hậu quả là, vào đầu tháng Năm, tôi lại bị ủy ban kỷ luật của trường gọi tới và bị tố cáo là chống lại Tập. Từ đó trở đi ĐCSTQ cấm tôi đăng bài ở tất cả các phương tiện truyền thông Trung Quốc – báo in, báo mạng, truyền hình. Ngay cả danh tính của tôi cũng không được xuất bản. Rồi một đêm tháng Bảy tôi lại bị triệu tập tới một cuộc họp ở Trường Đảng Trung ương, nơi một thành viên của ủy ban kỷ luật đặt một chồng hồ sơ dày cả gang tay lên bàn trước mặt tôi. “Đã có chừng này tài liệu về bà,” ông ta nói. “Hãy nghĩ lại đi”. Rõ ràng tôi đã được cảnh báo phải im lặng, và rằng nếu tôi tiếp tục đăng tải dù chỉ một chữ, tôi sẽ bị xem xét thi hành kỷ luật, gồm cả việc cắt giảm quyền lợi hưu trí của tôi. Tôi rất giận cách tôi bị đối xử, dù tôi hiểu rằng những người khác còn bị đối xử khắc nghiệt hơn nữa.
Trong tất cả những năm tháng làm đảng viên của ĐCSTQ, tôi chưa bao giờ vi phạm một quy định nào, chưa từng bị gọi lên khiển trách. Nhưng giờ đây, tôi thường xuyên bị các cán bộ đảng thẩm vấn. Hội đồng kỷ luật của trường nhiều lần đe dọa cái viễn cảnh nhục nhã là tôi phải đứng trước một cuộc họp công khai và đông người và công bố hình phạt chính thức. Vào cuối mỗi cuộc hỏi cung, các thẩm vấn viên đều yêu cầu tôi giữ bí mật. Tất cả là một phần của cái thế giới ngầm không thể bị phơi bày dưới ánh sáng mặt trời.
Thế rồi xảy ra vụ che giấu sự tàn bạo của cảnh sát đã kích hoạt cuộc đoạn tuyệt cuối cùng của tôi với Tập và đảng. Trước đó, vào tháng Năm năm 2016, Lỗi Dương (Lei Yang), một nhà khoa học môi trường, đang trên đường ra phi trường đón bà mẹ vợ thì, trong một tình huống hãy còn mù mờ – anh bị chết trong khi bị cảnh sát Bắc Kinh giam giữ. Để trốn tránh trách nhiệm gây ra tội ác, cảnh sát đã vu khống Lỗi, cáo buộc anh gạ gẫm gái mãi dâm. Các bạn học thời đại học của anh tức giận với âm mưu lăng nhục đó, đã hợp sức lại giúp gia đình anh tìm kiếm công lý; họ khởi động một chiến dịch vang vọng khắp Trung Quốc. Để dẹp yên cơn giận dữ, các nhà lãnh đạo chóp bu của ĐCSTQ ra lệnh điều tra. Công tố viện đồng ý tổ chức khám nghiệm tử thi độc lập và một phiên xét xử được lên kế hoạch để xem xét vụ việc.
Sau đó xảy ra một việc lạ kỳ: Cha mẹ của Lỗi, vợ và các con anh bị cấm cố tại gia, và chính quyền địa phương đề nghị với họ một khoản bồi thường lớn, khoảng 1 triệu Mỹ kim, để họ từ bỏ cuộc mưu cầu sự thật. Khi gia đình của Lỗi từ chối, số tiền được tăng lên tới 3 triệu Mỹ kim. Ngay cả sau khi 3 triệu Mỹ kim được ném vào nhà, vợ của Lỗi vẫn đòi hỏi làm sạch thanh danh người chồng quá cố của mình. Thế rồi chính quyền gây áp lực với cha mẹ của Lỗi, họ phải quỳ trước mặt con dâu và van xin cô từ bỏ vụ kiện. Vào tháng Mười Hai, công tố viện công bố rằng họ sẽ không truy tố người nào về cái chết của Lỗi, còn luật sư của gia đình tiết lộ rằng ông ta bị cưỡng bức phải rút ra khỏi vụ án.
Khi tôi nghe về kết quả này, tôi ngồi suốt đêm tại bàn làm việc, cố vượt qua nỗi đau buồn và giận dữ. Cái chết của Lỗi là trường hợp quá rõ ràng về tội phạm nhưng thay vì trừng trị các sĩ quan cảnh sát chịu trách nhiệm, cấp trên của họ đã cố dùng những đồng tiền thuế mà người dân chắt chiu kiếm được để dàn xếp vụ án bên ngoài tòa. Các quan chức bao che cho tội lỗi của nhau hơn là phục vụ người dân. Tôi tự hỏi mình, Nếu như các quan chức ĐCSTQ có khả năng thực hiện những hành động bỉ ổi như vậy thì làm thế nào có thể tin tưởng ở đảng? Hơn hết thảy, tôi tự hỏi làm cách nào mà tôi vẫn là một phần của hệ thống này?
Sau 20 năm lưỡng lự, hoang mang và khổ sở, tôi quyết định bước ra khỏi bóng tối và làm cuộc đoạn tuyệt hoàn toàn với đảng. Bước đại nhảy vọt thụt lùi của Tập làm cho tôi không có lựa chọn nào khác. Năm 2018 Tập bãi bỏ các giới hạn nhiệm kỳ của chức vụ chủ tịch, làm dấy lên kỳ vọng tôi sẽ phải sống mãi dưới sự cai trị của Stalin kiểu mới. Mùa hè sau đó, tôi có thể đi sang Hoa Kỳ theo thị thực du lịch. Trong lúc ở Hoa Kỳ, tôi nhận được thông tin từ một người bạn bảo tôi rằng chính quyền Trung Quốc đang tố cáo tôi có các hành vi “phản đảng”, sẽ bắt giam tôi nếu tôi trở về. Tôi quyết định kéo dài chuyến thăm viếng của tôi đến khi mọi chuyện lắng xuống. Thế rồi đại dịch Covid-19 bùng phát và các chuyến bay sang Trung Quốc bị hủy bỏ, thế là tôi phải chờ đợi lâu hơn. Cũng trong thời gian này, tôi ghê tởm cách Tập xử lý vụ bùng phát dịch và ký tên vào thỉnh nguyện thư ủng hộ bác sĩ Lý Văn Lượng (Li Wenliang) người bác sĩ nhãn khoa ở Vũ Hán đã bị cảnh sát quấy nhiễu vì cảnh báo cho bạn bè về một bệnh dịch mới và cuối cùng đã chết vì dịch bệnh đó. Tôi nhận những cuộc điện thoại khẩn từ giới chức của Trường Đảng Trung ương yêu cầu tôi trở về.
Nhưng bầu không khí ở Trung Quốc ngày càng đen tối. Ông Nhậm, nhà tư bản bất động sản bất đồng chính kiến, đã biến mất hồi tháng Ba và ngay sau đó bị khai trừ khỏi đảng và bị kết án 18 năm tù giam. Trong khi đó, vấn đề của tôi với nhà cầm quyền còn dính tới việc công bố mà không có sự đồng ý của tôi một cuộc trò chuyện riêng tư trên mạng giữa tôi và một nhóm nhỏ bạn bè trong đó tôi gọi ĐCSTQ là “cái xác sống chính trị” và nói rằng Tập nên từ chức. Khi tôi gửi cho bạn bè một bài ngắn mà tôi viết để lên án đạo luật an ninh quốc gia ở Hồng Kông của Tập, vài người cũng tiết lộ nó.
Tôi biết mình đang gặp rắc rối. Chẳng bao lâu sau đó tôi bị khai trừ khỏi đảng. Trường Đảng tước đoạt mọi quyền lợi hưu trí của tôi. Tài khoản ngân hàng của tôi bị đóng băng. Tôi yêu cầu chính quyền ở Trường Đảng Trung ương bảo đảm an toàn cá nhân nếu tôi trở về. Các quan chức ở đó tránh trả lời câu hỏi của tôi mà thay vì vậy họ đưa ra những lời đe dọa mơ hồ tới con gái tôi ở Trung Quốc và đứa con trai nhỏ của nó. Đến lúc này thì tôi chấp nhận sự thật: không còn đường về nữa.