Sunday, April 28, 2024
Trang chủThâm cung bí sửBí mật về “chuồng cọp” Côn Đảo đã được phát hiện như...

Bí mật về “chuồng cọp” Côn Đảo đã được phát hiện như thế nào?

Tháng 7/1970, Tạp chí Life công bố những hình ảnh đầu tiên về “chuồng cọp” Côn Đảo, gây chấn động dư luận Mỹ. Được vận hành bởi chính quyền Việt Nam Cộng hòa với sự phối hợp chặt chẽ của cố vấn Hoa Kỳ và nguồn tài trợ từ CIA, nhà tù Côn Đảo là nơi giam giữ, tra tấn những người bị cáo buộc là Cộng sản cùng nhiều người yêu hòa bình khác. Tình cảnh bi thương của những người tù Côn Đảo bị giới chức Mỹ và VNCH che giấu và chỉ được phát hiện khi có một phái đoàn nghị sĩ Mỹ tới thăm. Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7, Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài báo gốc trên Tạp chí Life, số ra ngày 17/7/1970, cùng một số trích đoạn báo chí khác xoay quanh sự kiện này.

Don Luce, người Mỹ đầu tiên phát hiện và tiết lộ thông tin về “chuồng cọp” Côn Đảo.

Thư tòa soạn – Tạp chí Life số ra ngày 17/7/1970

Trong số báo này, chúng tôi công bố loạt ảnh được chụp trong một nhà tù ở Đảo Côn Sơn. Đó là tác phẩm của một phi công kiêm nhiếp ảnh gia nghiệp dư 30 tuổi tên là Tom Harkin, người đã tới Việt Nam đầu tháng này với vai trò trợ lý cho một ủy ban của Quốc hội Hoa Kỳ.

Harkin lần đầu nghe kể về tình trạng của nhà tù này từ Don Luce, một thư ký điều hành của Hội đồng Giáo hội Thế giới, người đã ở Việt Nam được 11 năm. Khi Harkin tới gặp Luce ở Sài Gòn thì Luce đang dịch một báo cáo về tình trạng của nhà tù. “Tôi hỏi liệu chúng ta có thể nói chuyện với người nào đó đã từng bị giam trong nhà tù này hay không”, Harkin nhớ lại. “Vài ngày sau, Luce đưa một cựu tù[1] – một thanh niên trẻ – tới khách sạn. Anh nói anh đã ở Côn Sơn được 13 tháng, phần lớn thời gian là ở trong những ‘chuồng cọp’”. Theo miêu tả của anh ấy thì tình trạng ở đó rất tồi tệ. Anh nói rằng những “chuồng cọp” này được giấu rất kỹ và chúng tôi sẽ không bao giờ có thể tìm thấy chúng nếu không có sự giúp đỡ, nhưng rồi anh vẽ cho chúng tôi một bản đồ”.

Chuyến thăm Côn Sơn đã được bao gồm trong lịch trình của ủy ban Quốc hội, nhưng chỉ có 2 nghị sĩ là William R. Anderson của bang Tennessee và Augustus F. Hawkins của bang California bày tỏ mong muốn tham gia, mặc dù Harkin đã kể với cả nhóm những tin đồn về “chuồng cọp”. Luce, vốn thông thạo tiếng Việt, đã đồng hành cùng 3 người với vai trò phiên dịch viên.

“Chuyến thăm nhà tù chỉ mang tính chất thủ tục”, Harkin nhớ lại. “Những khu nhà ở đó không hay ho, nhưng cũng chẳng có gì kinh khủng. Luce và tôi liên tục đối chiếu bản đồ, và khi phát hiện thấy mình đang tới gần vị trí “chuồng cọp”, chúng tôi tách khỏi nhóm và tự mình lẳng lặng đi tìm. Ở một vườn rau, tôi thấy một bức tường và một cánh cửa có vẻ chẳng dẫn tới đâu, tôi dám chắc đó chính là nó”.

“Tôi thì thầm với nghị sĩ Hawkins rằng tôi đã tìm thấy một cánh cửa trong một vườn rau. Ngay lập tức, ông cất tiếng hỏi viên quản giáo về rau, và không lâu sau đó, tất cả chúng tôi đã ở trong vườn, rất gần chỗ cánh cửa. Tôi hỏi viên quản giáo, một Đại tá người Việt tên là Vệ, rằng phía sau cánh cửa có gì. Anh ta nói nó dẫn tới một khu khác và rằng chúng tôi không được phép vào đó. Tôi khăng khăng đề nghị anh ta mở cửa, nhưng anh ta nhất quyết không chịu. Nhưng rồi có tiếng lanh canh, và cánh cửa bật mở. Rõ ràng là người lính canh bên trong đã nghe thấy tiếng viên Đại tá và tưởng anh ta muốn vào. Viên Đại tá tỏ ra bối rối. Nhưng trước khi anh ta kịp cất lời, nghị sĩ Hawkins và tôi đã lao thẳng vào, và trong đó, chúng tôi thấy những chuồng cọp.

Các nghị sĩ xem xét chuồng cọp trong hơn nửa giờ đồng hồ. Khi thấy Harkin chụp ảnh, viên Đại tá cáu kỉnh đòi tịch thu phim, nhưng Harkin không chịu. Sau đó, trên đường về Mỹ, một thành viên của phái đoàn nghị sĩ cũng hỏi xin cuộn phim của Harkin. Harkin một lần nữa từ chối. “Tôi có một trách nhiệm lớn hơn”, anh nói với nghị sĩ, “đối với 500 con người đang bị giam cầm trong những cái chuồng đó”.

Các thành viên của một ủy ban Quốc hội tới thăm một hòn đảo ở Nam Việt Nam, nơi giam giữ tù chính trị.

Bên dưới những thanh sắt này, các tù nhân ngồi co cụm. Hơn nửa trong số họ là phụ nữ, và có một cô bé mới chỉ 15 tuổi. Không khí hôi hám, cùng với hơi nóng hầm hập. Những thanh sắt bám đầy vôi. Những người tù kể rằng lính canh đã đổ vôi vào họ để trừng phạt. Vôi làm họ bỏng mắt và ngạt thở. Tất cả các tù nhân đều bị bệnh: lao phổi, đau mắt và suy dinh dưỡng. Luce kể rằng những người ốm nặng nhất nằm trên sàn, trong khi những người khác dùng những miếng giẻ để quạt cho họ. Chẳng mấy ai có thể đứng được, bởi họ thường xuyên bị xích. Một người tù kể rằng họ đã lấy trộm được một ít cỏ để ăn trên đường trở về từ những cuộc đánh đập tra tấn, và “bắt thằn lằn, bọ cùng những loại côn trùng khác, ăn sống và chia nhau”.

“Tôi là một nhà sư và tôi đã lên tiếng vì hòa bình vào năm 1966”, người tù nói vọng lên. “Tôi ở đây chẳng vì lý do gì khác ngoài khát vọng hòa bình. Tôi đã bị đánh đập, xiềng xích. Nhưng tôi vẫn lên tiếng vì hòa bình”.

Những tù nhân trong chuồng cọp đều là “tội phạm cứng đầu”, Đại tá Trưởng Trại tù Côn Sơn Nguyễn Văn Vệ nói. “Những kẻ xấu xa. Chúng không chào cờ, kể cả cờ Mỹ”. Trưởng cố vấn Hoa Kỳ về nhà tù và thi hành pháp luật ở Việt Nam là Frank E. Walton, nguyên là sĩ quan cảnh sát ở Los Angeles, người từng quản lý quận Watts. Ông ta thăm Côn Sơn thường xuyên, và trong một tuyên bố có ký tên được phát cho những khách trên đường tới thăm, ông ta nói nhà tù này “là một cơ sở cải huấn đáng được xếp hạng cao hơn một số nhà tù ở Mỹ”. Về sau ông ta còn nói: “Nơi này giống như trại giải trí cho hướng đạo sinh”. Sau khi các chuồng cọp bị phát hiện, ông ta nói: “Các anh không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Các anh không được nhúng mũi vào những việc không phải của mình”.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới