Tuesday, November 26, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiVì sao Mỹ để mất Đông Nam Á

Vì sao Mỹ để mất Đông Nam Á

Gần đây, Mỹ liên tục nhấn mạnh về sự “hội tụ” (convergence) với các đối tác châu Á. Tại Đối thoại Shangri-La thường niên ở Singapore vào tháng 6, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin đã đặt tiêu đề cho bài phát biểu của mình là “Sự hội tụ mới ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Tại Viện Brookings vào một tháng sau đó, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken khẳng định rằng Mỹ đang có “sự hội tụ lớn hơn nhiều” với các đối tác quan trọng ở châu Á, trích dẫn mối quan hệ đang cải thiện với Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như các liên kết an ninh ngày càng mạnh mẽ giữa NATO và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cũng trong tháng 7, tại Diễn đàn An ninh Aspen, Antony Blinken nhắc lại rằng ông “chưa từng thấy thời điểm nào có sự hội tụ mạnh mẽ hơn giữa Mỹ với các đối tác châu Âu và các đối tác châu Á không những về cách tiếp cận đối với Nga, mà còn cả về cách tiếp cận đối với Trung Quốc”.

Gần đây, Mỹ liên tục nhấn mạnh về sự “hội tụ” (convergence) với các đối tác châu Á. Tại Đối thoại Shangri-La thường niên ở Singapore vào tháng 6, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin đã đặt tiêu đề cho bài phát biểu của mình là “Sự hội tụ mới ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Tại Viện Brookings vào một tháng sau đó, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken khẳng định rằng Mỹ đang có “sự hội tụ lớn hơn nhiều” với các đối tác quan trọng ở châu Á, trích dẫn mối quan hệ đang cải thiện với Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như các liên kết an ninh ngày càng mạnh mẽ giữa NATO và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cũng trong tháng 7, tại Diễn đàn An ninh Aspen, Antony Blinken nhắc lại rằng ông “chưa từng thấy thời điểm nào có sự hội tụ mạnh mẽ hơn giữa Mỹ với các đối tác châu Âu và các đối tác châu Á không những về cách tiếp cận đối với Nga, mà còn cả về cách tiếp cận đối với Trung Quốc”.

Tuy nhiên, sự thật là Mỹ đang mất dần vị thế ở những khu vực quan trọng của châu Á. Mỗi năm, Viện ISEAS-Yusof Ishak – một viện nghiên cứu được tài trợ chủ yếu bởi chính phủ Singapore nhưng hoạt động độc lập – thăm dò ý kiến từ 1.000 đến 2.000 người thuộc giới học thuật, các tổ chức tư vấn, khu vực tư nhân, xã hội dân sự, các tổ chức phi lợi nhuận, truyền thông, chính phủ, và các tổ chức khu vực và quốc tế từ mười quốc gia thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Cuộc khảo sát này là nghiên cứu gần nhất về “quan điểm của giới tinh hoa” đối với các vấn đề khu vực và quốc tế, đưa ra cái nhìn tổng quan về sự thay đổi nhận thức, mặc dù một số người có thể tranh luận về các chi tiết cụ thể. Trong cuộc thăm dò năm nay, đa số những người được hỏi đã chọn Trung Quốc nhiều hơn Mỹ khi được yêu cầu lựa chọn ASEAN nên liên kết với ai nếu buộc phải chọn giữa hai nước. Đây là lần đầu tiên những người được hỏi chọn Trung Quốc kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu đặt câu hỏi này vào năm 2020.

Sự sụt giảm ủng hộ đối với Mỹ này nên gióng lên hồi chuông cảnh báo ở Washington, nơi coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chính và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là chiến trường quan trọng. Đông Nam Á nằm ở trung tâm địa lý của khu vực rộng lớn và năng động này. Đây là nơi có hai đồng minh của Mỹ (Philippines và Thái Lan) và một số đối tác quan trọng. Các mục tiêu của Mỹ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bị cản trở bởi việc mất dần vị thế vào tay Trung Quốc. Philippines và Singapore, nơi Mỹ có các cơ sở quân sự, sẽ đặc biệt quan trọng trong trường hợp xảy ra xung đột trực tiếp giữa Trung Quốc và Mỹ, nhưng ngay cả khi không có chiến tranh, ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Đông Nam Á vẫn làm giảm khả năng của Mỹ trong việc tương tác song phương và đa phương để đạt hiệu quả chiến lược. Nhiều quốc gia Đông Nam Á không phải là các nền dân chủ tự do, và các chính phủ ở đó không nhất thiết phải thực hiện các chính sách đối ngoại phản ánh dư luận. Tuy nhiên, nhóm được thăm dò ý kiến bao gồm cả các quan chức chính phủ, và ngay cả các nền dân chủ phi tự do hiện nay cũng cảm thấy áp lực phải đáp ứng quan điểm của công dân.

Đánh mất thể diện

Trong những năm gần đây, Mỹ đã đạt được một số thành công ở Đông Nam Á. Đặc biệt, chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden đã tăng cường quan hệ với Philippines, đảm bảo quyền tiếp cận bốn cơ sở quân sự mới vào năm 2023. Đáp lại sự tham gia ngoại giao cấp cao liên tục đỉnh điểm là chuyến thăm của Biden tới Hà Nội vào tháng 9 năm ngoái, Việt Nam cũng chính thức nâng cấp mối quan hệ với Mỹ lên hai cấp độ thành “đối tác chiến lược toàn diện” – mặc dù mức độ hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và kinh tế sẽ tăng đến đâu vẫn còn phải chờ xem.

Tuy nhiên, với hầu hết các quốc gia khác ở Đông Nam Á, Mỹ đã hoạt động kém hiệu quả hơn. Trong cuộc khảo sát năm 2020 – năm đầu tiên Viện ISEAS-Yusof Ishak hỏi những người khảo sát “Nếu ASEAN buộc phải liên kết với một trong những đối thủ chiến lược, thì nên chọn ai?” – 50,2% chọn Mỹ, so với 49,8% chọn Trung Quốc, khi các câu trả lời được điều chỉnh (như đã được thực hiện kể từ cuộc thăm dò năm 2022) để đảm bảo rằng câu trả lời của mỗi quốc gia được đại diện theo tỷ lệ bằng nhau. Năm 2023, 61% số người được hỏi chọn Mỹ so với 39% chọn Trung Quốc, mặc dù Mỹ hoạt động kém hơn mức trung bình chung ở Brunei, Indonesia, Lào, Malaysia và Thái Lan. Tuy nhiên, trong cuộc khảo sát năm 2024, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành đối tác liên kết được lựa chọn của khu vực: 50,5% số người được hỏi chọn Trung Quốc và 49,5% chọn Mỹ.

Phân tích kết quả năm nay theo từng quốc gia cho thấy kể từ cuộc thăm dò năm 2023, Mỹ đã mất nhiều vị thế nhất vào tay Trung Quốc trong số những người được hỏi ở Lào (giảm 30 điểm phần trăm), Malaysia (giảm 20 điểm phần trăm), Indonesia (giảm 20 điểm phần trăm), Campuchia (giảm 18 điểm phần trăm) và Brunei (giảm 15 điểm phần trăm). Mỹ cũng mất vị thế ở Myanmar và Thái Lan (lần lượt giảm 10 và 9 điểm phần trăm).

Mỹ vẫn nhận được sự ủng hộ rất cao ở Philippines (nơi 83% số người được hỏi chọn Mỹ hơn Trung Quốc) và Việt Nam (nơi 79% số người được hỏi chọn Mỹ) và sự ủng hộ vững chắc ở Singapore (62%), Myanmar (58%) và Campuchia (55%). Nhưng chỉ có ba quốc gia mà sự ưa thích của những người được hỏi đối với việc liên kết với Mỹ hơn Trung Quốc tăng từ năm 2023 đến năm 2024 – Philippines, Singapore và Việt Nam – và những mức tăng này là nhỏ. Với cách đặt câu hỏi, sự suy yếu của Mỹ luôn là cơ hội của Trung Quốc. Nói cách khác, những người được hỏi – bao gồm cả các quan chức chính phủ – ở nhiều quốc gia Đông Nam Á, bao gồm một trong hai đồng minh của Mỹ (Thái Lan) và hai trong bốn đối tác mà Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ tìm kiếm mối quan hệ chặt chẽ hơn (Indonesia và Malaysia), hiện nay cho thấy rằng họ sẽ chọn Trung Quốc hơn Mỹ nếu buộc phải liên kết với chỉ một trong những đối thủ chiến lược.

Mỹ đã mất sự ủng hộ đáng kể nhất ở các quốc gia có đa số dân theo đạo Hồi. Khảo sát năm 2024 cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ về quan điểm so với năm 2023. 75% người Malaysia, 73% người Indonesia và 70% người Brunei được khảo sát cho biết họ thích liên kết với Trung Quốc hơn Mỹ, so với lần lượt là 55%, 54% và 55% vào năm 2023. Cuộc khảo sát không hỏi những người tham gia lý do tại sao họ đưa ra lựa chọn này. Nhưng điều đáng nói là khi một câu hỏi khác yêu cầu những người được hỏi chọn ba mối quan tâm địa chính trị hàng đầu của họ, gần một nửa xếp hạng cuộc xung đột Israel-Hamas ở vị trí hàng đầu, vượt qua 40% xếp hạng tranh chấp Biển Đông gần về mặt địa lý nhất.

Sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với Israel có thể đã làm nghiêng cán cân sang có lợi cho Trung Quốc. Những người được khảo sát ở cả ba quốc gia có đa số dân theo đạo Hồi đều xếp hạng cuộc xung đột Israel-Hamas là mối quan tâm địa chính trị hàng đầu của họ: 83% người Malaysia, 79% người Brunei và 75% người Indonesia đã chọn phương án này. Singapore, nơi có một cộng đồng thiểu số người Mã Lai theo đạo Hồi đáng kể (15% dân số), cũng xếp hạng cuộc xung đột Israel-Hamas là mối quan tâm hàng đầu của họ, với 58% số người được hỏi chọn phương án này.

Cẩu thả nghiêm trọng

Các phát hiện của cuộc khảo sát phù hợp với những thảo luận gần đây của tôi trong khu vực. Các nhà ngoại giao Indonesia mà tôi đã nói chuyện đều chỉ trích gay gắt lập trường của Mỹ về cuộc chiến ở Gaza. Một nhà ngoại giao cấp cao của Malaysia tuyên bố đơn giản rằng “chúng tôi sẽ chọn Trung Quốc vì Gaza”. Trong một cuộc trò chuyện riêng, một quan chức cấp cao của Malaysia giải thích rằng mặc dù Malaysia từ lâu đã theo đuổi chính sách đối ngoại không liên kết và chỉ trích chính sách của Mỹ ở Trung Đông, nhưng cường độ tức giận đối với Israel và Mỹ đã tăng lên; nhiều người Malaysia hiện đang tẩy chay thực phẩm và thương hiệu tiêu dùng của Mỹ. Ngược lại, Trung Quốc lại được nhìn nhận với ánh mắt ngày càng thiện cảm hơn.

Việc những người được hỏi ở Campuchia cho biết họ thích liên kết với Mỹ, mặc dù sự ưa thích đó đã giảm 18 điểm phần trăm so với năm 2023, có vẻ đáng ngạc nhiên, khi chính phủ Campuchia ủng hộ Trung Quốc một cách kiên định. Thật vậy, những người Campuchia bình thường mà tôi đã nói chuyện trong chuyến thăm vào tháng 3 cho biết họ đánh giá cao sự ủng hộ của Mỹ đối với nền dân chủ. Tuy nhiên, ngay cả những người đánh giá cao nước Mỹ cũng không thể chỉ ra những đóng góp cụ thể mà nước này đã làm cho Campuchia ngoài việc hỗ trợ các nhóm xã hội dân sự.

Tháng 6 vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Austin đã đến thăm Phnom Penh để tìm kiếm cơ hội tăng cường quan hệ quốc phòng. Nhưng nỗ lực củng cố quan hệ với Campuchia này đã tụt lại xa so với quan hệ của Bắc Kinh với nước này. Vào năm 2019, Campuchia được cho là đã đạt được một thỏa thuận cho phép quân đội Trung Quốc tiếp cận độc quyền căn cứ hải quân Ream trên bờ biển Vịnh Thái Lan, mang lại cho Trung Quốc lợi thế chiến lược và hậu cần – mặc dù cả Phnom Penh và Bắc Kinh đều phủ nhận rằng Trung Quốc sẽ sử dụng căn cứ này cho mục đích quân sự. Trung Quốc cũng đóng một vai trò quá lớn trong nền kinh tế Campuchia. Theo Hội đồng Phát triển Campuchia, một cơ quan chính phủ Campuchia chịu trách nhiệm thúc đẩy và tạo điều kiện đầu tư, đầu tư của Trung Quốc vào tháng 5 chiếm gần 50% tổng số vốn tài trợ của Campuchia; Mỹ chiếm chưa đến một phần trăm. Vào tháng 8, Campuchia đã khởi công một con kênh trị giá 1,7 tỷ USD do Trung Quốc tài trợ để nối Phnom Penh với Vịnh Thái Lan.

Tương tự, mặc dù Washington có thể tự hào về việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc đã có cùng mức độ quan hệ đối tác từ năm 2008. Ba tháng sau khi Mỹ nâng cấp quan hệ, Hà Nội đã có động thái nâng cao hơn nữa quan hệ chiến lược của Việt Nam với Trung Quốc. Hai nước đã công bố 36 thỏa thuận hợp tác mới, và Hà Nội đã đưa ra một tuyên bố chung về quan hệ ngoại giao tuân thủ công thức mà Trung Quốc mong muốn: cụ thể, Trung Quốc và Việt Nam tạo thành một “cộng đồng chung vận mệnh”, một cách diễn đạt mà Hà Nội đã tránh trong nhiều năm do lo ngại về sự mơ hồ của nó và rằng nó sẽ bị coi là một động thái đứng về phía Trung Quốc.

Các phương tiện truyền thông phương Tây thường đưa tin về những cái bẫy nợ liên quan đến Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Nhưng các dự án BRI nhìn chung được hoan nghênh ở Đông Nam Á vì tiềm năng tăng trưởng và phát triển mà chúng mang lại cho quốc gia tiếp nhận. Một nhà ngoại giao cấp cao trong khu vực tuyên bố đó là một mô hình về cách giành được “trái tim và khối óc”. Vào tháng 1, tôi đã đến Lào, nơi diễn ra cuộc họp kín của các bộ trưởng ngoại giao ASEAN tại Luang Prabang, trung tâm văn hóa và tinh thần của đất nước. Không có dấu hiệu cạnh tranh ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ; chỉ có ảnh hưởng của Trung Quốc bao trùm cuộc sống hàng ngày của người dân. Cư dân Luang Prabang nói tích cực về sự thúc đẩy đối với các doanh nghiệp địa phương kể từ tháng 4 năm 2023, khi một tuyến đường sắt liên kết với BRI chạy qua thành phố và kết nối Lào với Trung Quốc được đưa vào hoạt động hoàn toàn.

Một quản lý khách sạn người Lào, trước đây từng hỗ trợ hành khách với tư cách là nhân viên của Công ty Đường sắt Lào-Trung Quốc do Trung Quốc làm chủ sở hữu phần lớn, kể lại rằng một số du khách đã cởi giày và để chúng trên sân ga trước khi lên tàu. Đối với nhiều người dân làng Lào, đây là lần đầu tiên họ đi tàu. Những giai thoại đáng yêu này cũng mang đến một ý nghĩa sâu sắc hơn: ở châu Á, người ta thường cởi giày trước khi vào nhà, và người Lào rõ ràng cảm thấy thoải mái với tuyến đường sắt do Trung Quốc xây dựng.

Chi phí ẩn

Sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Đông Nam Á đang cản trở khả năng của Mỹ trong việc tiếp cận song phương và đa phương trong khu vực một cách hiệu quả về mặt chiến lược. Ví dụ rõ ràng nhất là cách tiếp cận thận trọng của ASEAN đối với Biển Đông: bất chấp các hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines trong năm qua, khối này đã không đưa ra tuyên bố nào chỉ đích danh Trung Quốc.

Nhưng việc Mỹ mất dần vị thế trong khu vực cũng làm tổn hại đến vị thế của nước này ở những nơi khác, cho dù đó là việc giành được sự ủng hộ để lên án cuộc xâm lược Ukraine của Nga hay đối với các chính sách của nước này ở Trung Đông. Nhận thức về lợi ích quốc gia quyết định lập trường của một quốc gia đối với bất kỳ vấn đề nào. Tuy nhiên, việc có thiện cảm từ các quốc gia Đông Nam Á sẽ giúp Washington thuyết phục họ về lý do tại sao một lập trường nào đó có thể có lợi cho họ. Lời kêu gọi của Washington về một phản ứng toàn cầu mạnh mẽ hơn đối với các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế trắng trợn của Nga – điều làm suy yếu lợi ích của tất cả các quốc gia – hầu như không được lắng nghe ở Đông Nam Á. Trong khi đó, nhiều người ở Đông Nam Á lặp lại quan điểm của Nga hoặc Trung Quốc về cuộc chiến. Nhận thức rằng Mỹ có tiêu chuẩn kép trong chính sách đối ngoại của mình – và các mục tiêu vì lợi ích riêng khi nói đến Trung Quốc – đã làm suy yếu khả năng giành được sự ủng hộ lớn hơn của nước này. Khi nhiều người Đông Nam Á nhìn vào Mỹ hiện nay, họ thấy một quốc gia rối loạn trong nước và thúc đẩy một chương trình nghị sự vì lợi ích riêng một cách trắng trợn ở nước ngoài.

Để lấy lại sự ủng hộ ở Đông Nam Á, Mỹ nên tránh phóng đại quá mức sự hội tụ của mình với các đối tác châu Á. Việc nhấn mạnh vào câu chuyện về sự hội tụ cho thấy, trong trường hợp tốt nhất, Washington thiếu nhận thức về vị thế đang suy giảm của Mỹ ở Đông Nam Á, và trong trường hợp xấu nhất, Đông Nam Á đang bị bỏ qua trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Washington cũng nên nhận ra rằng mặc dù các chính phủ Đông Nam Á, đặc biệt là những chính phủ đang giải quyết các yêu sách lãnh thổ và hàng hải chồng lấn với Trung Quốc, có thể không hài lòng với các hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông, nhưng tranh chấp này không tạo thành tổng thể mối quan hệ của họ với Trung Quốc. Điều này đúng ngay cả đối với Philippines: Bắc Kinh vẫn có thể điều chỉnh phản ứng của Manila bằng cách cư xử tốt hơn ở Biển Đông, thực hiện các nghĩa vụ của mình theo các thỏa thuận BRI hoặc đưa ra các khoản đầu tư khác.

Washington phải tăng cường các hoạt động kinh tế của mình với khu vực: đối với các nước Đông Nam Á, kinh tế là an ninh. Khi cuộc khảo sát của Viện ISEAS-Yusof Ishak hỏi những người tham gia là “cường quốc kinh tế nào có ảnh hưởng nhất” ở Đông Nam Á, gần 60% số người được hỏi đã chọn Trung Quốc, trong khi Mỹ chỉ đạt 14%. Sau chuyến thăm gần đây của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tới Campuchia, cần tăng cường tiếp cận kinh tế, bao gồm tăng cường thương mại và đầu tư. Thủ tướng Campuchia Hun Manet, người năm ngoái đã kế tục cha mình là Hun Sen, là một sinh viên tốt nghiệp West Point và thông thạo tiếng Anh. Washington có cơ hội lật sang trang mới sau một thập kỷ quan hệ căng thẳng và tận dụng những liên kết này để can dự chiến lược với Phnom Penh nhằm chống lại ảnh hưởng đang phát triển nhanh chóng của Trung Quốc ở Campuchia.

Mỹ cũng phải tập trung vào việc đáp trả các hành động của Trung Quốc rõ ràng làm suy yếu lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ hoặc vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Trong cả hai trường hợp, Washington nên có thể biện minh rõ ràng cho các phản ứng của mình và điều chỉnh chúng sao cho tương xứng với hành vi vi phạm của Trung Quốc. Nhiều người ở Đông Nam Á cảm thấy khó hiểu tại sao mức thuế 100% đối với xe điện nhập khẩu từ Trung Quốc, chẳng hạn, lại cần thiết vì lý do an ninh quốc gia. Các nước Đông Nam Á lo ngại rằng Washington đang đối đầu không cần thiết và gây ra xung đột Mỹ-Trung hoặc giáng thêm đòn vào trật tự kinh tế hiện tại, vốn đã mang lại lợi ích cho họ.

Mỹ muốn chống lại thông tin sai lệch từ Trung Quốc. Nhưng những nỗ lực như vậy phải giải quyết các nguyên nhân gốc rễ khiến chúng cộng hưởng. Trung Quốc đã mô tả Mỹ là một “kẻ hiếu chiến hèn nhát” ở Gaza; nhiều người ở Đông Nam Á mà tôi mới nói chuyện gần đây, kể cả những người không theo đạo Hồi, cho biết rằng sự mô tả này đúng với họ. Tuy nhiên, sự mô tả như vậy sẽ không có cơ sở nếu không phải vì phản ứng của chính Washington đối với cuộc khủng hoảng ở Gaza, vốn đã ủng hộ hoặc ít nhất là ngầm đồng ý với những hành động quá khích nhất của Israel.

Lấy lại vị thế mà Mỹ đã mất ở Đông Nam Á sẽ là một cuộc chiến khó khăn. Các quốc gia Đông Nam Á sẽ tiếp tục cân nhắc giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng thách thức đối với Washington sẽ là chuyển đổi mong muốn tiếp tục hợp tác với Mỹ của họ thành lợi ích chiến lược. Tuy nhiên, với những gì đang bị đe dọa, Washington phải cố gắng. Hơn nữa, vấn đề của Mỹ ở châu Á không chỉ riêng của nước này. Đông Nam Á sẽ thật ngu ngốc nếu để mối quan hệ của mình với Mỹ trở nên xấu đi. Cây dù an ninh mà Mỹ cung cấp đã mang lại hòa bình và thịnh vượng cho khu vực. Nếu không có sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ, các lựa chọn chiến lược của khu vực sẽ bị thu hẹp và khả năng yêu cầu Trung Quốc cư xử tốt hơn cũng vậy.

Nhiều khó khăn mà Mỹ phải đối mặt ở Đông Nam Á không phải là duy nhất. Chúng là một phần của tình thế khó xử lớn hơn đối với Mỹ: cụ thể là làm thế nào để giành được sự ủng hộ của Nam bán cầu – đặc biệt là các nước đang phát triển mà Trung Quốc đang tích cực lôi kéo – hoặc ít nhất là ngăn chặn họ trượt vào quỹ đạo của Trung Quốc. Nhưng Đông Nam Á đặc biệt quan trọng đối với chiến lược của Mỹ vì nó nằm ở trung tâm của một khu vực mà Washington đã xác định là ưu tiên. Rốt cuộc, quyết định cuộc chiến với Trung Quốc sẽ thắng hay thua chính là ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới