Cách đây 37 năm, ngày 14/3/1988, Hải quân Trung Quốc đã sử dụng vũ lực tấn công đá Gạc Ma gây ra cuộc chiến đẫm máu đối với quân nhân Việt Nam. Trước đó, vào đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng trái phép các bãi đá Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Subi, Huy Gơ thuộc quần đảo Trường Sa.
Bắc Kinh đơn phương tăng cường từ 9 lên 12 tàu chiến gồm khu trục tên lửa, hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo và tàu đổ bộ… hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa. Nhân đây, chúng ta cùng phân tích để thấy rõ sau khi Bắc Kinh sử dụng vũ lực chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa năm 1974 thì việc tiếp tục đánh chiếm Gạc Ma nằm trong mưu đồ khống chế Biển Đông của Trung Quốc.

Một điều cần khẳng định rằng cho đến những thập niên đầu Thế kỷ 20, Trung Quốc chưa hề biết đến quần đảo Trường Sa nằm cách nước này đến 700 hải lý. Ngay cả chuyền đi biển của Lý Chuẩn tháng 6/1909 mà sau này được Bắc Kinh rêu rao rằng đây là “chuyến đi thu phục Hoàng Sa” cũng không hề đề cập gì tới quần đảo Trường Sa. Giới phân tích nhận định cho đến thời điểm đó, Bắc Kinh còn chưa có khái niệm gì về quần đảo Trường Sa chứ đừng nói đến việc Trung Quốc khai phá hay quản lý quần đảo này.
Sau chuyến đi của Lý Chuẩn 12 năm, tháng 3/1921 chính quyền quân sự Quảng Đông đã ký một sắc lệnh vô lý sáp nhập Hoàng Sa vào huyện Châu Nhai, phủ Quỳnh Châu lúc bấy giờ. Cho đến thời điểm đó Trung Quốc cũng chưa hề nhắc gì đến quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, sắc lệnh sáp nhập Hoàng Sa của chính quyền Quảng Đông cho thấy rõ mưu đồ của Trung Quốc đối với Biển Đông. Trước âm mưu bành trướng của Bắc Kinh và sự manh nha xuất hiện của người Nhật trên tuyến đường biển quan trọng “nối liền giữa Hong Kong và Sài Gòn”, liên tiếp từ năm 1925-1930 Pháp đã có những động thái khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và cả Trường Sa.
Trước hết, đầu tháng 3/1925 toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ của Pháp (tức thuộc về An Nam đang là thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ). Tiếp đến ngày 13/4/1930, Pháp đã cho tàu La Malicieuse ra Trường Sa để treo quốc kỳ Pháp. Mười ngày sau đó, Chính phủ Pháp đã tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Tại phía Nam Biển Đông, tháng 3/1933, Pháp đã điều bốn tàu Lamalicieuse, tàu chiến Alerte, hai tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan đến Trường Sa. Sau khi đổ bộ lên các đảo ở đây, người Pháp ngay lập tức soạn thảo một văn bản, sau đó nhân ra 11 bản và thuyền trưởng của các tàu cùng bút ký. Các văn bản này được đóng kín trong một cái chai rồi đem đến trên các đảo ở Trường Sa gắn chặt vào một trụ xi măng xây cố định. Với việc làm này, Pháp đã hoàn tất thủ tục xác lập chủ quyền đối với Trường Sa theo đúng quy định của luật pháp quốc tế.
Trước đó, trong bản ghi chú gửi cho Vụ châu Á đại dương, Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratley) mà Pháp thực hiện trong hai năm 1931-1932 là nhân danh hoàng đế An Nam”. Đến năm 1938, Pháp tiếp tục cho xây dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm khí tượng thủy văn và một trạm vô tuyến trên đảo Ba Bình (Itu-Aba). Như vậy, tính từ năm 1930-1938, chính quyền thực dân pháp đã nhân danh An Nam (Việt Nam lúc bấy giờ) xác lập chủ quyền rõ ràng ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Với tham vọng độc chiếm Biển Đông, sau khi dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, Bắc Kinh tìm cách để thâu tóm các thực thể thuộc quần đảo Trường Sa, tạo chỗ đứng để mở rộng bành trướng xuống phía Nam Biển Đông. Cho đến đầu năm 1988, Bắc Kinh chưa đóng giữ trên bất kỳ thực thể nào thuộc Trường Sa. Trong số các thực thể mà Trung Quốc nhắm tới có 3 điểm chốt với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng có thể khống chế lối vào Biển Đông là Đá Chữ Thập, Đá Gạc Ma và Đá Vành Khăn. Bắc Kinh tính toán rằng chiếm được Đá Chữ Thập có thể khống chế được toàn bộ thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế phía Nam Việt Nam; chiếm được Đá Gạc Ma có thể khống chế, kiểm soát các đảo và thực thể mà Việt Nam và Philippines đang đóng giữ vì nó nằm giữa và cách không xa các thực thể này. Đánh chiếm Gạc Ma vì Trung Quốc muốn có một pháo đài ở trung tâm Biển Đông. Gạc Ma cùng với các thực thể ở Hoàng Sa và đảo Hải Nam có thể tạo thành thế tam giác để khống chế Biển Đông; chiếm Đá Vành Khăn có thể kiểm soát được toàn bộ vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Philippines. Điều này cho thấy việc đánh chiếm Gạc Ma và các thực thể thuộc Trường Sa đã nằm trong ý đồ gặm nhấm Biển Đông từ vài chục năm trước.
Tại sao Trung Quốc lại sử dụng vũ lực để đánh chiếm Đá Gạc Ma và các thực thể thuộc Trường Sa vào năm 1988 được các chuyên gia phân tích nhiều. Có thể nói một thủ đoạn mở rộng xâm lấn của Bắc Kinh ở Biển Đông là tìm thời điểm khó khăn của đối phương để ra tay. Lúc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 đã vậy (tranh thủ lúc chính quyền Sài Gòn gặp khó khăn để tấn công); đối với Gạc Ma và các thực thể ở Trường Sa cũng thế.
Trung Quốc lựa chọn thời điểm năm 1988 vì đây là thời điểm mà Việt Nam đang cực kỳ khó khăn cả trong và ngoài nước. Gần 10 năm xung đột biên giới kéo dài, Việt Nam đã hao tổn không nhỏ nhân lực, vật lực. 1988 được coi là năm đỉnh điểm khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội bắt đầu từ năm 1987. Ngoài nước, Hà Nội bị bao vây cấm vận và bị cô lập trên trường quốc tế. Hậu thuẫn lớn nhất của Việt Nam lúc bấy giờ là Liên Xô – cũng đang bế tắc trong khủng hoảng. Một số nguồn tin cho biết Trung Quốc “bằng con đường nào đó” biết được nếu họ có hành động quân sự ở Trường Sa thì Liên Xô cũng không can thiệp. Trong bối cảnh đó, Việt Nam khó có thể chống đỡ khi Trung Quốc tấn công vũ lực đánh chiếm các thực thể ở Trường Sa. Chính vì thế, Trung Quốc ra tay đánh chiếm Đá Gạc Ma, bắn chìm tàu, giết hại 64 chiến sĩ Việt Nam.
Qua việc Trung Quốc gây ra cuộc chiến đẫm máu ở Đá Gạc Ma và đánh chiếm thêm 5 thực thể khác thuộc Trường Sa năm 1988 và Đá Vành Khăn năm 1995, cộng đồng quốc tế có thể rút ra được bài học rằng, không được mơ hồ về ý đồ, dã tâm của Trung Quốc trên Biển Đông – một mưu đồ lâu dài và có tầm nhìn có lẽ còn vượt ra khỏi Biển Đông, hướng ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
25 năm sau khi đánh chiếm các thực thể ở Trường Sa, từ năm 2014 Trung Quốc đẩy mạnh việc nạo vét, bồi đắp mở rộng các thực thể mà họ chiếm đóng thành các đảo nhân tạo. Vào tháng 6/2014, Bộ Ngoại giao Philippines lần đầu tiên thông báo với toàn thế giới rằng Trung Quốc đang ráo riết cải tạo các thực thể ở Trường Sa, thông qua các bức ảnh chụp từ vệ tinh mà các tập đoàn viễn thông quốc tế cung cấp. Tháng 2/2015, thời báo Wall Street của Mỹ tiếp tục đăng tải thông tin về việc Trung Quốc đang xây dựng đảo nhân tạo trên nền tảng các thực thể mà họ đánh chiếm năm 1988 và năm 1995. Bảy thực thể này có sự thay đổi lớn đến đáng kinh ngạc, cụ thể là khi so sánh với hiện trạng vào tháng 2/2014, diện tích Đá Gạc Ma đã tăng lên đến 200 lần, Đá Chữ Thập tăng lên 10 lần. Một sân bay quân sự đã bắt đầu rõ hình hài. Sự thay đổi chóng mặt này khiến cả thế giới phải bất ngờ.
Điều nguy hiểm là Trung Quốc đã xây dựng đường băng, cầu cảng lớn và bố trí tên lửa cùng nhiều trang thiết bị quân sự hiện đại trên 7 cấu trúc mà họ chiếm đóng, biến chúng thành các đồn điền quân sự để phục vụ tham vọng khống chế, độc chiếm Biển Đông. Trước phản ứng của cộng đồng quốc tế, Trung Quốc lại tuyên bố rằng việc cải tạo các thực thể tại Trường Sa là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, bởi họ có chủ quyền đối với các thực thể này.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ngang nhiên tuyên bố rằng “Chúng tôi cải tạo Gạc Ma, Chữ Thập và các đảo khác giống như lát gạch trong sân nhà mình”. Đó là một tuyên bố hết sức sai lầm, quay lưng lại với luật pháp quốc tế. Và tất nhiên, sẽ không một quốc gia, một tổ chức quốc tế nào chấp nhận lý luận không có cơ sở đó của Trung Quốc. Hơn cả thế, những tuyên bố của Trung Quốc đã khiến cộng đồng quốc tế và khu vực đánh mất hoàn toàn niềm tin vào những cam kết mà Trung Quốc đã thoả thuận, bao gồm Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC mà các nước ASEAN và Trung Quốc ký năm 2002.
Từ việc sử dụng vũ lực đánh chiếm Đá Gạc Ma, Chữ Thập và 4 thực thể khác thuộc Trường Sa năm 1988 của Trung Quốc hay việc chiếm đóng Đá Vành Khăn năm 1995 đên việc cải tạo các thực thể này, biến chúng thành các căn cứ quân sự trên biển của Trung Quốc là hoàn toàn vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) do vậy nó không thể mang lại danh nghĩa về chủ quyền cho Bắc Kinh. Phán quyết năm 2016 của Toà Trọng tài vụ kiện Biển Đông do Philippines khởi xướng đã kết luận việc Trung Quốc tiến hành nạo vét, bồi đắp, mở rộng 7 thực thể mà họ chiếm đóng đã phá hoại môi trường biển và bất hợp pháp.
Sau khi được cải tạo và quân sự hoá trong một thập kỷ qua, Gạc Ma, Chữ Thập, Vành Khăn và các thực thể khác thuộc Trường Sa mà Trung Quốc chiếm đóng ngày nay được Trung Quốc sử dụng làm bến đỗ và nơi xuất phát của các tàu chiến, tàu hải cảnh và tàu dân quân biển của Trung Quốc trong chiến thuật vùng xám mà Bắc Kinh đang ráo riết triển khai nhằm vào các nước láng giềng ven Biển Đông, mở rộng hành động xâm lấn xuống phía Nam Biển Đông.
Nhìn lại việc Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma, các thực thể khác năm 1988 và Đá Vành Khăn năm 1995 cũng như việc Bắc Kinh cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo và quân sự hoá các thực thể này trong những năm qua có thể thấy rõ các thực thể này đã nằm trong mưu đồ thống trị, thôn tính Biển Đông lâu dài của Trung Quốc. Trận hải chiến Gạc Ma mà Hải quân Trung Quốc gây ra cách đây 37 năm chỉ là sự khởi đầu cho việc thực hiện tham vọng bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Giới chuyên gia nhận định việc Trung Quốc chiếm đóng 7 thực thể ở Trường Sa và đang sử dụng các thực thể này như các tiền đồn quân sự gây đe doạ nghiêm trọng tự do và an toàn hàng hải, hàng không trên tuyến đường biển huyết mạch của thế giới ở Biển Đông, tạo ra những thách thức lớn đối với hoà bình ổn định trong khu vực, gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cộng đồng quốc tế. Việc giải quyết những thách thức này là trách nhiệm không chỉ của các nước ven Biển Đông mà cũng là trách nhiệm của cả cộng đồng quốc tế, trong đó có các nước lớn và có lợi ích chiến lược ở khu vực./.
Trần Duy Hải
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia