Trong những năm gần đây, Nhật Bản đã, đang tích cực đóng góp vào việc bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và thúc đẩy giải quyết hòa bình, theo luật quốc tế các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Việc Nhật Bản tăng cường can thiệp trong vấn đề Biển Đông có tác động, ảnh hưởng nhất định đối với khu vực.
Biển Đông có vai trò quan trọng, mang tính sống còn đối với Nhật Bản
Nhật Bản có lợi ích gắn chặt với khu vực Biển Đông trên nhiều mặt như kinh tế, thương mại, ổn định về chính trị, an ninh và giao thông hàng hải:
Về khía cạnh an ninh, quân sự: Nhật Bản là một nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và có vùng biển giáp với Biển Đông, vì vậy sự ổn định về môi trường chính trị, an ninh và quốc phòng trong khu vực Biển Đông có ý nghĩa quan trọng, tác động trực tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế của Nhật Bản.Lãnh đạo Nhật đã nhiều lần nhấn mạnh quyết tâm đảm bảo trật tự hòa bình không để xảy ra xung đột leo thang toàn khu vực. Một khi xung đột xảy ra ở Biển Đông, nhiều khả năng nhiều nước sẽ bị kéo vào cuộc chiến gây bất ổn toàn bộ khu vực, làm tắc nghẽn tuyến giao thông hàng hải ảnh hưởng đến môi trường an ninh và phát triển kinh tế của Nhật Bản. Nhật cho rằng tranh chấp Biển Đông hiện nay đã không còn đơn thuần là tranh chấp lãnh thổ giữa ASEAN và Trung Quốc mà đã chuyển thành vấn đề an ninh cho toàn khu vực mà Nhật Bản và Mỹ cũng như các nước khác đều phải can dự.
Về khía cạnh kinh tế: Theo số liệu thống kê, Biển Đông có tuyến đường biển vận tải hàng hóa quan trọng bậc nhất đối với Nhật Bản; hiện có khoảng 42% hàng hóa của Nhật Bản, chủ yếu là nguyên liệu dầu mỏ, than đá, quặng… đi qua Biển Đông. Nếu tuyến đường giao thông hàng hải qua Biển Đông bị tắc nghẽn sẽ gây thiệt hại lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản.
Về quan hệ đồng minh: Lợi ích chính trị của Nhật Bản đối với đồng minh Mỹ cũng không kém phần quan trọng so với lợi ích về kinh tế thương mại của Nhật Bản trong khu vực Biển Đông. Mỹ là đồng minh số 1 của Nhật Bản tại châu Á – Thái Bình Dương; các lợi ích về an ninh của Nhật Bản và Mỹ có nhiều điểm tương đồng. Về tranh chấp lãnh thổ tại Biển Hoa Đông, Mỹ đã nhiều lần cam kết sẽ áp dụng Điều 5 của Hiệp ước đồng minh giữa hai nước đối với cả quần đảo Senkaku mà Nhật Bản đang có tranh chấp với Trung Quốc. Mặt khác, lợi ích của Mỹ liên quan đến tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông cũng tương đồng với Nhật Bản. Mỹ cần đảm bảo tự do thương mại trên biển và tự do trong việc di chuyển hải quân ở các vùng biển và Nhật Bản thấy cần đảm bảo con đường tự do thương mại không bị cản trở bởi bất cứ nước nào. Tokyo nhìn nhận rằng nếu để trật tự trên biển tại khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông bị tác động bởi các hành động có tính “cưỡng chế”, sẽ có những tác động bất lợi không chỉ ảnh hưởng tại Tây Thái Bình Dương mà cả trên phạm vi toàn cầu. Do đó, Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ các hoạt động tự do hàng hải của đồng minh Mỹ tại khu vực Biển Đông.
Mục tiêu chiến lược của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông
Quan điểm và mục tiêu xuyên suốt của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông là duy trì hòa bình, đảm bảo an ninh và tự do hàng hải quốc tế, trên nguyên tắc mọi bất đồng tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển phải được giải quyết dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật biển quốc tế bằng các biện pháp hòa bình. Về chính thống, Nhật Bản luôn tuyên bố không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ và vùng biển; Nhật Bản chủ trương các tranh chấp phải giải quyết một cách hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp; Nhật Bản cũng lo việc đảm bảo một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương (trong đó bao gồm Biển Đông) tự do và mở, các nước tôn trọng tự do hàng hải và hàng không, thương mại biển không bị cản trở ảnh hưởng đến thịnh vượng của Nhật Bản; Nhật Bản giúp nâng cao năng lực tuần tra hàng hải cho một số nước liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Mục tiêu của Nhật Bản khi tăng cường can dự vào vấn đề Biển Đông là nhằm: (1) Đảm bảo tự do hàng hải, ổn định khu vực, giải quyết hòa bình các tranh chấp bởi Biển Đông là tuyến đường thương mại, vận chuyển nguồn nguyên liệu cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế Nhật Bản; (2) Phân tán sự chú ý và nguồn lực trong tranh chấp Hoa Đông với Nhật Bản bởi nếu thành công ở Biển Đông, Trung Quốc sẽ áp dụng mô hình, chiến thuật đối với tranh chấp Hoa Đông.Nhật Bản và Trung Quốc có tranh chấp lâu dài ở Biển Hoa Đông, đặc biệt là quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhật Bản cho rằng nếu Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông thì sẽ gây ảnh hưởng bất lợi đối với tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Mục đích chiến lược của Nhật Bản là hình thành thế phối hợp tác chiến hai cánh Biển Đông và Biển Hoa Đông, từ đó cản trở hoạt động của Trung Quốc trên biển Hoa Đông. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng mong muốn hỗ trợ một số nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông, để đổi lại sự ủng hộ của các nước này đối với Nhật Bản trong vấn đề Biển Hoa Đông; tạo mối liên kết giữa Nhật Bản với một số nước Đông Nam Á trong vấn đề tranh chấp trên biển, khiến Trung Quốc rơi vào cảnh phải tác chiến trên cả hai mặt trận Biển Hoa Đông và Biển Đông; đồng thời, kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản muốn nhân vấn đề Biển Đông, tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước ASEAN là các bên tranh chấp ở Biển Đông, đẩy mạnh viện trợ cho các nước này về kinh tế và quân sự, qua đó nâng cao hơn nữa ảnh hưởng của mình trong khu vực, hình thành một “liên minh chiến lược biển” để đối phó với Trung Quốc. Nhật Bản cho rằng Biển Đông như một cái “hang trống”, sẽ hút hết sức mạnh của Trung Quốc vào đó; Trung Quốc càng cứng rắn thì càng lún sâu tại Biển Đông, nếu giành được chiến thắng tại đây thì cũng hao tổn sức lực, ảnh hưởng đến việc phát triển của Trung Quốc, nhất là quá trình trở thành cường quốc biển thế giới. (3) Hỗ trợ cho chính sách của Mỹ đối với Biển Đông. Vì Nhật Bản là đồng minh và cũng là quốc gia có lợi ích rất lớn ở Biển Đông, Nhật Bản sẽ có những đóng góp quan trọng cho chính sách tái cân bằng nói chung và chính sách đối với Biển Đông nói riêng của Mỹ. (4) Nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á: Một mục tiêu quan trọng của Nhật Bản khi can dự vào vấn đề Biển Đông chính là tăng cường sự ảnh hưởng của nước này tại khu vực Biển Đông, tích cực can dự đối với cục diện an ninh khu vực, xây dựng hình ảnh nước lớn ở khu vực. Những năm qua, cùng với đột phá trong việc sửa đổi Hiến pháp, đặc biệt là sau khi nới lỏng nguyên tắc xuất khẩu vũ khí, Nhật Bản đã tích cực bán vũ khí cho các nước Đông Nam Á nhằm một mặt, nâng cao thực lực quân sự của các nước này, đối phó với Trung Quốc đang không ngừng trỗi dậy; đồng thời, không ngừng củng cố, nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực này.
Quá trình triển khai chính sách của Nhật Bản liên quan vấn đề Biển Đông:
Từ năm 2010 đến nay, Nhật Bản đã có sự điểu chỉnh chính sách quốc phòng mang tính chủ động, linh hoạt và mang tính tấn công. Vì vậy chính sách của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông hiện nay được thể hiện qua việc chủ động, tích cực tăng cường các mối quan hệ song phương và đa phương trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, ngoại giao, kinh tế với ASEAN, các nước liên quan tranh chấp Biển Đông và Mỹ: (1) Về quan hệ đa phương, phương thức hữu hiệu của Nhật Bản là tích cực tham gia vào các cơ chế đối thoại đa phương của ASEAN. Đối với phương thức này, Nhật Bản luôn tích cực, chủ động tham gia vào các cơ chế an ninh do ASEAN làm chủ đạo, như ARF, ADMM, EAS. Mục tiêu là giám sát và kiềm chế các hành vi đơn phương của Trung Quốc ở Biển Đông, gây áp lực lên Trung Quốc nhằm phân tán sự chú ý cũng như triển khai hoạt động của Trung Quốc tại Hoa Đông. Để thực hiện mục tiêu này, Nhật Bản chủ động lên tiếng ủng hộ các tuyên bố của ASEAN, các quốc gia tranh chấp trong khu vực về vấn đề Biển Đông. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng chủ động đưa ra các sáng kiến thành lập các cơ chế thảo luận ở mức độ rộng lớn về vấn đề hàng hải. (2) Về hợp tác trên lĩnh vực an ninh biển, Nhật Bản tập trung nhiều hơn vào các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống trong lĩnh vực an ninh biển tại các cơ chế hợp tác ASEAN, đặc biệt là các vấn đề có mối quan hệ với tranh chấp Biển Đông và Hoa Đông. Ngoài ra, Nhật Bản cũng tận dụng và chủ động nêu vấn đề tại các cơ chế, diễn đàn khác mà Nhật Bản có vai trò ảnh hưởng như Hợp tác sông Mê-Kông mở rộng, G7. (3) Về quan hệ song phương: Nhật Bản thúc đẩy mối quan hệ song phương, đẩy mạnh sự hỗ trợ và ủng hộ của mình đối với các thành viên ASEAN có tranh chấp ở Biển Đông, đặc biệt là Việt Nam và Philippines, hỗ trợ nâng cao năng lực chấp pháp trên biển bao gồm cả phần cứng (như tàu tuần tra) và phần mềm (huấn luyện) thông qua nguồn hỗ trợ ODA và chương trình mới về hỗ trợ quốc phòng trong khuôn khổ mục tiêu Định hướng chương trình Quốc phòng quốc gia (NDPG) mà Nhật Bản đưa vào thực hiện từ năm 2010. Đối với Mỹ, mong muốn của Mỹ là Nhật Bản sẽ đóng vai trò hỗ trợ Mỹ củng cố và tăng cường sự hiện diện tại khu vực, hỗ trợ cho chiến lược tái cân bằng của Mỹ thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính, hỗ trợ xây dựng năng lực cho các quốc gia ven biển ở Biển Đông đối phó với Trung Quốc. (4) Thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông: Nhật Bản kêu gọi các bên tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông, ủng hộ các nước ASEAN đấu tranh chống việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa, thúc đẩy ASEAN hóa và quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Trong những chuyến thăm đến các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đều đưa vấn đề tự do hàng hải, hàng không cũng như tình hình an ninh Biển Đông ra thảo luận. Chủ đề về Biển Đông luôn giữ vị trí cao trong quan hệ của Nhật Bản với một số nước có liên quan đến tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán với Trung Quốc như Philippines, Việt Nam, Indonesia… Ngoài ra, Nhật Bản cũng cố gắng thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, gần như trong mọi diễn đang quốc tế. Trong hội nghị G7, G20, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), hội nghị giữa Nhật Bản và các nước châu Á – Thái Bình Dương, Nhật Bản đều nêu vấn đề bảo vệ luật quốc tế, bảo vệ tự do hàng hải, hàng không để đưa tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển Đông vào chương trình nghị sự của hội nghị. Đồng thời, Nhật Bản cũng lên tiếng yêu cầu các nước liên quan xác định rõ quyền lợi biển của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế, ủng hộ việc nhanh chóng xây dựng bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), phê phán hoạt động bồi lấp và xây dựng hạ tầng của Trung Quốc tại một số đảo đá ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong quá trình triển khai chính sách liên quan vấn đề Biển Đông, Nhật Bản đã có những bước điều chỉnh chiến lược để phù hợp với bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và quan hệ với các nước liên quan. Ban đầu, Nhật Bản không biểu thị thái độ rõ ràng. Khi thách thức từ Trung Quốc tăng lên và việc Bắc Kinh nỗ lực áp đặt một số quyền cấm đoán đối với lực lượng nước ngoài tiến vào khu vực Biển Đông, cùng với việc xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh và tìm cách kiểm soát Biển Đông đã gây ảnh hưởng lớn đối với hòa bình và ổn định của khu vực. Ngoài ra, Nhật Bản cũng lo ngại Trung Quốc khi kiểm soát thành công khu vực Biển Đông sẽ tập trung mọi nguồn lực để xâm chiếm khu vực Senkaku/Điếu Ngư. Điều đó khiến Nhật Bản phải có bước điều chỉnh chiến lược, mang tính tích cực hơn trong vấn đề Biển Đông. Cựu Ngoại trưởng Nhật Bản Katsuya Okada (24/7/2010) tuyên bố khẳng định “Nhật không thể không quan tâm tới vấn đề Biển Đông”. Vì vậy, Nhật Bản đẩy mạnh việc tổ chức đối thoại an ninh hàng hải với ASEAN, tập trung hỗ trợ việc xây dựng lực lượng Hải quân của Philippines, Việt Nam với hy vọng góp phần giảm thiểu sự đe dọa từ vành đai thứ hai đang tìm cách xâm nhập vào vành đai thứ nhất đe dọa Nhật Bản. Năm 2012, Nhật Bản và Philippines ký thỏa thuận hợp tác quốc phòng và trao đổi quân nhân. Nhật Bản bắt đầu hỗ trợ Philippines hiện đại hóa lực lượng tuần tra ven biển bằng dự án Nhật Bản đóng 12 tàu tuần tra với nhiều trang thiết bị hiện đại. Chính sách tiếp cận vấn đề Biển Đông còn được đẩy mạnh dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe thông qua hàng loạt sự đổi mới về các quy định hạn chế về quốc phòng, chính sách đối ngoại tập trung hơn vào ASEAN, đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia tranh chấp, đặc biệt là Việt Nam và Philippines.
Tuy nhiên, Nhật Bản cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức khi tăng cường can dự vào vấn đề Biển Đông: (1) So với Mỹ và Trung Quốc, vai trò và tầm ảnh hưởng về chính trị, ngoại giao của Nhật Bản còn hạn chế, do vậy Nhật Bản sẽ gặp khó khăn trong nỗ lực tăng cường ảnh hưởng đối với khu vực về các vấn đề an ninh cũng như vấn đề Biển Đông; (2) Do những hạn chế về Hiến pháp, nội bộ, việc tăng cường hợp tác quân sự (bên ngoài lãnh thổ) sẽ gặp những khó khăn nhất định. Điều đó cũng phần nào giải thích vì sao nhiều quốc gia khu vực vẫn nhìn nhận Nhật Bản là quốc gia, đối tác kinh tế hơn là quân sự, chính trị; (3) Chính trị nội bộ của Nhật Bản không ổn đỉnh, luôn có sự thay đổi. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự nhất quán về chính sách chung của Nhật Bản. (4) Ngoài ra, Nhật Bản không phải là bên tranh chấp, cùng với đó là quá khứ quân phiệt, đây sẽ là những nhân tố mà Trung Quốc và cả Hàn Quốc khai thác để gây áp lực và cản trở sự điều chỉnh chính sách về chính trị, quân sự của Nhật Bản, gián tiếp ảnh hưởng lên chính sách của Nhật Bản ở Biển Đông.
(còn tiếp)