Tại Cuộc họp lần thứ 14 Ủy ban hợp tác chung ASEAN – Nhật Bản (AJJCC, 11/3), hai bên đã nhấy trí thúc đẩy quan hệ song phương, đồng thời tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược.
Tại cuộc họp, hai bên đánh giá cao những kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực hợp tác chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội giữa ASEAN và Nhật Bản. Các nước ghi nhận kết quả tích cực trong thực hiện Kế hoạch sửa đổi 2017 triển khai Tuyên bố tầm nhìn ASEAN-Nhật Bản, với 71/75 dòng hành động đã được triển khai, tăng 3 dòng hành động so với năm 2019. Các nước ASEAN đánh giá cao sự hợp tác và hỗ trợ hiệu quả của Nhật Bản dành cho ASEAN trong nhiều năm thông qua Quỹ Liên kết ASEAN-Nhật Bản (JAIF) với tổng số tiền tài trợ đạt gần 85 triệu USD tính đến ngày 31/12/2019. Các nước cũng nhấn mạnh cần sớm hoàn tất các thủ tục để Nghị định thư thứ nhất sửa đổi Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản có hiệu lực, qua đó giúp gia tăng hơn nữa đầu tư và thương mại dịch vụ giữa hai bên, cũng như thúc đẩy việc ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (RCEP) trong năm 2020.
Trong khi đó, Nhật Bản đánh giá cao và ủng hộ các ưu tiên của Việt Nam trong năm Chủ tịch ASEAN 2020, cũng như nhấn mạnh triển khai 3 định hướng phát triển quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác ASEAN-Nhật Bản về “phát triển con người,” “xây dựng thể chế” và “tích lũy trí tuệ” như Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Motegi Toshimitsu từng nêu trong bài phát biểu chính sách quan trọng tại Ban Thư ký ASEAN ngày 10/1 vừa qua, trên nền tảng vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực và ưu tiên triển khai Quan điểm của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Chính phủ Nhật Bản quyết định cấp bổ sung 1,045 tỷ Yen (tương đương 9,5 triệu USD) cho Quỹ Liên kết ASEAN-Nhật Bản (JAIF) trong năm 2020, và 562,477 triệu Yen (tương đương 5,11 triệu USD) cho Chương trình Giao lưu Thanh niên và Sinh viên Nhật Bản và Đông Á 2020 (JENESYS 2020), cũng như huy động 3 tỷ USD từ khu vực công tư trong ba năm 2020-2021, bao gồm 1,2 tỷ USD dành cho các khoản vay và đầu tư ở nước ngoài cho ASEAN thông qua Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA).
Về định hướng, hai bên khẳng định cam kết tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN-Nhật Bản, thực hiện hiệu quả các Tuyên bố chung của Lãnh đạo Cấp cao, trong đó có Tuyên bố chung Hội nghị Cấp cao Kỷ niệm 45 năm Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác ASEAN-Nhật Bản (năm 2018) và Tuyên bố chung Hội nghị Cấp cao ASEAN-Nhật Bản lần thứ 22 về Kết nối (năm 2019). ASEAN và Nhật Bản sẽ ưu tiên tăng cường hợp tác về kết nối, phát triển hạ tầng, thông qua thực hiện Đối tác Giao thông ASEAN-Nhật Bản (AJTP), đàm phán Hiệp định Dịch vụ Hàng không ASEAN-Nhật Bản, và tạo sự gắn kết giữa việc triển khai Sáng kiến của Nhật Bản về Đối tác mở rộng về hạ tầng chất lượng cao với Kế hoạch Tổng thể Kết nối ASEAN 2025 (MPAC 2025). Hai bên cũng sẽ tập trung nguồn lực cho việc thực hiện toàn diện các dòng hành động trong Kế hoạch sửa đổi 2017 thực hiện Tuyên bố tầm nhìn ASEAN-Nhật Bản và Lộ trình chiến lược về hợp tác kinh tế 10 năm, nhất là các hoạt động và dự án hỗ trợ ASEAN thực hiện thành công các mục tiêu về xây dựng Cộng đồng, thu hẹp khoảng cách phát triển, hợp tác phát triển nguồn nhân lực, tạo thuận lợi thương mại, đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSME), thành phố thông minh, sáng tạo, kinh tế số và hỗ trợ thích ứng với Cách mạng công nghiệp 4.0, năng lượng, quản lý thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu…
Trong những năm gần đây, Nhật Bản đã có nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác, Đối tác chiến lược với ASEAN. Trên lĩnh vực kinh tế, Nhật Bản là một trong những nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài và cung cấp viện trợ ODA lớn nhất cho ASEAN. Trong vòng 10 năm qua, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản vào ASEAN đã tăng gấp 10 lần và kim ngạch thương mại hai chiều ASEAN – Nhật Bản tăng 2,4 lần. Nếu như năm 2009, Nhật Bản chiếm khoảng 10,5% thương mại và 13,4% trong đầu tư của ASEAN, thì đến năm 2011, Nhật Bản đã là đối tác thương mại lớn thứ hai của ASEAN, với khối lượng thương mại trị giá 273,34 tỷ USD, trong khi đầu tư FDI từ Nhật Bản đạt 15,25 tỷ USD cùng năm. Riêng trong năm 2013 – dấu mốc kỷ niệm 40 năm quan hệ ASEAN – Nhật Bản, Nhật Bản đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của ASEAN, sau Trung Quốc và Liên minh châu Âu – EU, với kim ngạch thương mại hai chiều lên tới gần 241 tỷ USD, chiếm 9,6% tổng thương mại ASEAN. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Nhật Bản sang ASEAN đạt gần 23 tỷ USD, trở thành nguồn vốn FDI lớn thứ hai vào ASEAN, và chiếm 18,7% tổng mức FDI vào ASEAN cùng năm. Những thành quả đạt được phần nhiều nhờ vào những đóng góp, hỗ trợ cả về kinh phí và vật lực của Chính phủ Nhật Bản đối với sự phát triển của ASEAN dưới dạng các gói tài trợ lớn.
Về lĩnh vực an ninh – quốc phòng, mặc dù chịu sự hạn chế nghiêm ngặt bởi điều 9 trong bản Hiến pháp Hòa bình về hoạt động quân sự ở nước ngoài, song Nhật Bản vẫn nỗ lực hỗ trợ các quốc gia ASEAN xây dựng năng lực quốc phòng, quân sự thông qua nhiều gói viện trợ và những hoạt động hợp tác cụ thể. Trước hết, Nhật Bản hỗ trợ ASEAN củng cố khả năng quốc phòng về mặt hàng hải. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu khi an ninh hàng hải đang là một vấn đề nóng đối với toàn châu Á – Thái Bình Dương. Trong những năm qua, lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã tham gia nhiều cuộc tập trận chung, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai và các hoạt động sơ tán phi chiến đấu với các quốc gia thành viên ASEAN. Thứ hai, Nhật Bản xây dựng năng lực hàng hải cho các quốc gia thành viên ASEAN thông qua việc cung cấp nhiều trang thiết bị, tàu tuần tra hiện đại và đào tạo cán bộ. Sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, Thủ tướng Shinzo Abe về cơ bản đã kế thừa phương hướng tăng cường hợp tác an ninh – quốc phòng giữa Nhật Bản và ASEAN từ các đời Thủ tướng tiền nhiệm. Hợp tác an ninh – quốc phòng được xem là thành tố cơ bản của “Học thuyết Shinzo Abe” với ASEAN, bảo đảm cho thành công của chiến lược “Châu Á – Thái Bình Dương: Tự do và rộng mở”. Cụ thể, Nhật Bản đã cung cấp tàu tuần tra biển cho Việt Nam và Philippines. Tháng 8-2013, Nhật Bản ký thỏa thuận cung cấp 6 tàu tuần tra đã qua sử dụng cùng thiết bị bảo đảm an ninh trên biển cho Việt Nam trong khuôn khổ nguồn vốn ODA trị giá 500 triệu Yên. Tháng 12/2013, Nhật Bản cũng cam kết cung cấp 10 tàu tuần tra mới cho Philippines trong một khoản vay trị giá 184 triệu USD. Đặc biệt mối quan hệ quốc phòng Nhật Bản – Philippines phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian gần đây. Philippines đã bày tỏ mong muốn mua máy bay trinh sát biển P-3C Orion của Nhật, nhằm tăng cường đáng kể khả năng giám sát lãnh hải và vùng biển của mình. Manila và Tokyo thậm chí còn đưa ra một thỏa thuận viếng thăm, theo đó sẽ cho phép lực lượng hải quân Nhật Bản đồn trú tại Philippines. Xét về lịch sử chiếm đóng Philippines của Nhật Bản trong Thế chiến II, thì hành động trên được đánh giá là bước đi táo bạo của cả hai nước. Ngoài ra, để tăng cường sự hiện diện tại Đông Nam Á, Nhật Bản cũng ký Thỏa thuận hợp tác quốc phòng Nhật Bản – Indonesia. Thỏa thuận này có ý nghĩa quan trọng với chính sách ASEAN của Nhật Bản. Thỏa thuận bao hàm hai lĩnh vực chính là huấn luyện quân sự và công nghệ quốc phòng. Thứ ba, Chính phủ Nhật Bản từng bước thúc đẩy việc xuất khẩu vũ khí trực tiếp để hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng quốc phòng của các nước ASEAN. Như vậy, Nhật Bản đã có những bước đi mới trong việc điều chỉnh hợp tác an ninh – quốc phòng với ASEAN, nhằm giúp các quốc gia thành viên ASEAN gia tăng nội lực, chống lại hành động cưỡng ép của các nước lớn đối với tuyên bố chủ quyền và tranh chấp trên biển, thúc đẩy an ninh và an toàn hàng hải vì mục đích hòa bình, ổn định và trật tự của toàn khu vực.
Trong vấn đề Biển Đông, Nhật Bản luôn kêu gọi các bên tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông, ủng hộ các nước ASEAN đấu tranh chống việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa, thúc đẩy ASEAN hóa và quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Trong những chuyến thăm đến các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đều đưa vấn đề tự do hàng hải, hàng không cũng như tình hình an ninh Biển Đông ra thảo luận. Chủ đề về Biển Đông luôn giữ vị trí cao trong quan hệ của Nhật Bản với một số nước có liên quan đến tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán với Trung Quốc như Philippines, Việt Nam, Indonesia… Ngoài các nước ASEAN, trong quan hệ với các nước có chung lợi ích trên Biển Đông như Australia, Ấn Độ, Anh…, Nhật Bản luôn tìm sự đồng thuận thông qua các công cụ như tự do, dân chủ, pháp chế. Ngoài quan hệ song phương, Nhật Bản cố gắng thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, gần như trong mọi diễn đang quốc tế. Trong hội nghị G7, G20, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), hội nghị giữa Nhật Bản và các nước châu Á – Thái Bình Dương, Nhật Bản nêu vấn đề bảo vệ luật quốc tế, bảo vệ tự do hàng hải, hàng không để đưa tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển Đông vào chương trình nghị sự của hội nghị. Đồng thời, Nhật Bản cũng lên tiếng yêu cầu các nước liên quan xác định rõ quyền lợi biển của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế, ủng hộ việc nhanh chóng xây dựng bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), phê phán hoạt động bồi lấp và xây dựng hạ tầng của Trung Quốc tại một số đảo đá ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Không những vậy, Nhật Bản còn tích cực giúp một số nước ASEAN bảo vệ quyền lợi, nâng cao năng lực phòng thủ trên biển: Một mặt, Nhật Bản hỗ trợ trang bị cho các nước liên quan trực tiếp tranh chấp ở Biển Đông như Việt Nam, Philíppin nhằm tăng cường khả năng cảnh báo trên biển và củng cố lực lượng tiền duyên của các nước này để đối phó với Trung Quốc. Trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á – Đối thoại Shangri La năm 2014, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố cần phải chi viện trên thực tế để Việt Nam, Philippines, Malaysia tăng cường năng lực quân sự trên biển. Nhằm nâng cao khả năng phòng thủ biển của các nước ASEAN, Nhật Bản đã kết hợp các khoản hỗ trợ như viện trợ phát triển chính thức (ODA), đào tạo nâng cao khả năng do Lực lượng phòng vệ Nhật Bản (SDF) tổ chức, hợp tác về trang bị phòng thủ, để trợ giúp các nước này. Mặt khác, Nhật Bản thông qua các hình thức huấn luyện, diễn tập quân sự chung với các nước ASEAN để nâng cao khả năng quân sự của các nước này và giúp cho quân đội Nhật Bản thông thạo tình hình thực tế trong khu vực Biển Đông, nhằm thử nghiệm cho việc tuần tra, giám sát của Nhật Bản tại khu vực biển này. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 2015, tàu chiến của Nhật Bản và Philippines nhiều lần tiến hành diễn tập chung tại vùng biển của Philippines. Tháng 8 năm 2015, Nhật Bản, Mỹ và Philippines tiến hành diễn tập cứu trợ nhân đạo tại vịnh Subic. Đối với Việt Nam, tháng 5 năm 2015, đã có hai máy bay tuần tra trên biển P-3C của Nhật Bản lần đầu đến Đà Nẵng; tháng 11 năm 2015, Việt Nam và Nhật Bản đã đạt được nhận thức chung về việc tàu chiến của Nhật Bản có thể cập cảng Cam Ranh.
Về lĩnh vực văn hóa – xã hội. Giáo dục luôn được ưu tiên hàng đầu trong chính sách ASEAN của Nhật Bản. Là đất nước có nền giáo dục đạt chất lượng cao, uy tín trên thế giới, những năm gần đây, Nhật Bản là một trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục và đào tạo của nhiều nước thành viên ASEAN. Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai bên đã phát triển dưới nhiều hình thức: hợp tác giữa các Chính phủ, giữa các trường học, giữa các tổ chức, giữa các cá nhân. Chương trình trao đổi lưu học sinh nằm trong dự án “giao lưu con người”, hằng năm Chính phủ Nhật Bản giành hàng nghìn suất học bổng du học Nhật cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh các nước ASEAN. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản cũng cung cấp nhiều gói học bổng về giáo dục cho các viện, trường học và nhiều nhà khoa học của các quốc gia ASEAN thông qua các quỹ giao lưu và hợp tác, các quỹ tài chính của Nhật Bản như Quỹ Japan (JF), Quỹ khuyến học Nhật bản (JSPS), Quỹ Toyota… Hiện nay Chính phủ Nhật Bản đang thực hiện kế hoạch thu hút khoảng 300.000 sinh viên quốc tế đến năm 2020.