Thursday, May 2, 2024
Trang chủĐàm luậnChính sách Biển Đông của Malaysia (Kỳ 1)

Chính sách Biển Đông của Malaysia (Kỳ 1)

Lâu nay, trong vấn đề Biển Đông, Malaysia duy trì chính sách “không đối đầu, không gây chuyện”, cố gắng tránh xung đột bên ngoài, đặc biệt là xung đột quân sự, ưu tiên việc sử dụng biện pháp chính trị để đảm bảo duy trì lợi ích vốn có của mình tại Biển Đông; giữ lập trường tương đối tích cực với chủ trương Biển Đông của Trung Quốc, nhưng đồng thời Malaysia cũng không ngừng tăng cường xây dựng năng lực quân sự của mình ở khu vực Biển Đông, thúc đẩy hợp tác quân sự với Mỹ, Việt Nam…

Kiên trì tuyên bố chủ quyền, duy trì thái độ kiềm chế

Từ những năm 1980 đến nay, chính phủ qua các nhiệm kỳ luôn kiên trì thái độ không nhượng bộ đối với tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, mặc khác lại luôn lựa chọn thái độ tương đối bình tĩnh ôn hòa, chủ trương bằng phương thức hòa bình, thông qua con đường ngoại giao để giải quyết tranh chấp. Trong đó, có phương thức hội đàm song phương chứ không phải hội đàm đa phương mà Chính phủ Trung Quốc đề ra để giải quyết tranh chấp Biển Đông, Malaysia cũng bày tỏ sự đồng thuận nhất định, nhưng đồng thời đề xuất nên cân nhắc lựa chọn phương thức hội đàm đa phương trong thời điểm thích hợp.

Chính thái độ đối phó thực dụng này khiến Malaysia có thể kiểm soát một cách thực tế các hòn đảo đã chiếm được ở Trường Sa. Nhà nghiên cứu địa chính trị của Học viện không gian địa lý thuộc trường Đại học Khoa học tự nhiên Malaysia, Azmi Hassan thậm chí gọi biện pháp ngoại giao này của Malaysia là “hình mẫu ngoại giao”. Ông nói, so với xung đột do đảo Hoàng Nham giữa Trung Quốc và Philippines, Malaysia xử lý ổn thỏa tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Phương thức đối phó “đối kháng và xung đột” mà Manila lựa chọn khiến họ không thể duy trì được hiện trạng của đảo Hoàng Nham, trong khi phương thức đối phó theo chủ nghĩa thực dụng mà Malaysia lựa chọn đã thành công trong việc tránh được xung đột với Bắc Kinh, khiến bãi cạn James đang có sự tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Malaysia vẫn ở trong vòng kiểm soát của Malaysia. 

Ngang nhiên khai thác dầu khí, thúc đẩy khai thác chung 

Về vấn đề Biển Đông, đồng thời với việc kiên trì giải quyết tranh chấp bằng phương thức ngoại giao, Chính phủ Malaysia chưa từng từ bỏ hoặc ngừng khai thác nguồn dầu khí ở khu vực đã chiếm lĩnh được ở Biển Đông. Theo số liệu của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) công bố hồi tháng 4/2013, về “ Trữ lượng dầu thô và khí đốt của các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông” thì trữ lượng dầu khí của vùng biển mà Malaysia chiếm giữ là cao nhất Biển Đông.

Giành được điều kiện khai thác dầu khí đặc biệt, từ những năm 1970 Malaysia bắt đầu hợp tác với những hãng dầu khí quốc tế lớn, liên tục khai thác nguồn dầu khí ở Biển Đông. Năm 1972, ngoài khơi bờ biển Sabah và Sarawak, lần đầu tiên phát hiện ra dầu mỏ, sau đó, rất nhiều giếng dầu được xây dựng tại đây, khai thác dầu mỏ triển khai từ đó. Theo thống kê, tổng lượng dầu mỏ của những giếng dầu này gấp hai lần nhu cầu tiêu thụ trong nước khi đó của Malaysia. Cho đến năm 1980, công suất lọc dầu mỗi ngày ở mức 280 đến 300 thùng, tương đương với 40 nghìn tấn. Dầu khí đã trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Malaysia. Khí hóa lỏng cũng bắt đầu xuất khẩu từ năm 1983, các nhà máy khí hóa lỏng được xây dựng ở Bintulu bờ biển Trung bộ Sarawak. Cho đến năm 2011, Malaysia khai thác tổng cộng 18 mỏ dầu và 40 mỏ khí tại vùng biển nằm trong “đường 9 đoạn” trên Biển Đông của Trung Quốc. Sản lượng dầu khí mỗi năm vượt 30 triệu tấn, sản lượng khí đốt gần 150 triệu m3/năm. 70% lượng dầu khí xuất khẩu của Malaysia đến từ vùng biển thuộc “đường 9 đoạn” trên  Biển Đông. 

Đồng thời với việc không ngừng khai thác trắng trợn nguồn dầu khí Biển Đông. Tại “Đối thoại Shangri-la” lần thứ 10 hồi tháng 6/2011, Thủ tướng Najib Razak đề nghị các nước liên quan thành lập một cơ quan chuyên môn để thúc đẩy các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông hợp tác khai thác tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là dầu lửa ở khu vực này. Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia khi đó là ông Ahmad Zahid Hamidi nói với truyền thông: “Đối với chúng tôi, công việc quan trọng nhất không phải là đánh thắng được bao nhiêu trận, mà là tránh được bao nhiêu cuộc chiến tranh. Cố gắng để có thể tránh được khủng hoảng, xung đột hoặc chiến tranh mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng tôi. Hiện nay trong khu vực Biển Đông, vấn đề tranh chấp lãnh thổ mà các nước đang đối mặt ở một mức độ rất lớn phát sinh từ lợi ích kinh tế. Và biện pháp giải quyết chính là tiến hành hợp tác khai thác cùng có lợi”. Ông còn lấy ví dụ hai nước Malaysia và Ấn Độ cùng đánh bắt cá trong vùng biển đang tranh chấp chủ quyền để minh họa cho tầm quan trọng của hợp tác cùng có lợi. 

Ngoài ra, Malaysia còn đề xướng dựa vào phương thức tổ chức “Cơ chế cho vay với mục đích đặc biệt” (SPV) để tiến hành khai thác chung nguồn dầu khí. SPV có nghĩa là xây dựng một “công ty mục đích đặc thù”, để các nước liên quan tham gia vào đó bằng hình thức cổ phần. Tiến hành khai thác chung tài nguyên bằng phương thức này, Malaysia có thể coi là có kinh nghiệm thành công. Hai nước Malaysia và Thái Lan đã thành công trong việc triển khai các dự án liên quan về khai thác chung trong khu vực biển tranh chấp phía Nam vịnh Thái Lan, dự án này trở thành trường hợp thành công đầu tiên của Đông Nam Á trong việc “gác lại tranh chấp, cùng khai thác chung” tài nguyên trên biển. 

Theo quan điểm này, Malaysia ra sức khuyến khích các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông gác lại tranh chấp lãnh thổ, tránh xung đột vũ trang, tiến hành khai thác chung ở Biển Đông, để theo đuổi hợp tác cùng thắng về mặt kinh tế. 

Kiên trì “Ngoại giao thầm lặng”, tránh xung đột quân sự 

Cùng với việc tình hình căng thẳng ở Biển Đông gia tăng, sự cảnh giác của Malaysia đối với Trung Quốc tăng lên rõ rệt. Thứ trưởng Ngoại giao Malaysia Hamzah Zainuddin khi trả lời câu hỏi của quốc hội vào ngày 15/6/2015 cho biết, các nước ASEAN bao gồm cả Malaysia không công nhận tuyên bố chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc dựa trên “đường 9 đoạn”, bởi vì tuyên bố này không phù hợp với “Công ước Liên hợp quốc về luật biển” và các luật pháp quốc tế liên quan. Đồng thời, Malaysia tiếp tục dựa trên “ngoại giao thầm lặng” để đối phó với những thay đổi của tình hình Biển Đông. Cái gọi là “ngoại giao thầm lặng” thực chất là sách lược ngoại giao dựa trên nguyên tắc cốt lõi “không đối kháng, tránh xung đột”. Sách lược này cũng là một “biện pháp cân bằng” mà Malaysia đã sử dụng để đối phó với tình hình Biển Đông đầy phức tạp và biến động. 

Trung tuần tháng 11/2015, khi tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 23 tổ chức tại Manila, Thủ tướng Najib đã có cuộc hội đàm với Chủ tịch Tập Cần Bình. Najib sau đó đã bày tỏ với báo chí rằng trong cuộc hội đàm Chủ tịch Tập Cận Bình đã tán thành chính sách “ngoại giao thầm lặng” mà Chính phủ Malaysia đã lựa chọn trong vấn đề Biển Đông. Các học giả phương Tây chỉ ra rằng Malaysia cho rằng chủ nghĩa dân tộc cấp tiến sẽ hạn chế các lựa chọn chiến lược của chính phủ và làm tổn hại đến quan hệ song phương. Bắc Kinh cũng qua các kênh công khai và nội bộ tán thành “sách lược thầm lặng” mà Chính phủ Malaysia lựa chọn, trong vấn đề Biển Đông thái độ đối với Malaysia cũng ôn hòa hơn nhiều so với Việt Nam và Philippines.

(Còn tiếp)

RELATED ARTICLES

Tin mới