Tuesday, May 7, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNghiên cứu quốc tếTài liệu CIA: Sự sụp đổ của chế độ thực dân và...

Tài liệu CIA: Sự sụp đổ của chế độ thực dân và hệ quả đối với an ninh Hoa Kỳ (Kỳ 1)

Viện Nghiên cứu Phát triển Phương Đông trân trọng giới thiệu với độc giả bản dịch một số tài liệu CIA về Việt Nam trong các giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Mặc dù chỉ phản ánh quan điểm và cách đánh giá của phía Mỹ (CIA), song những tài liệu này sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về lịch sử Việt Nam thế kỷ 20, đặc biệt trên khía cạnh quan hệ giữa các nước lớn và sự can thiệp của họ vào chiến tranh Việt Nam.

Bản đánh giá dưới đây, đề ngày 3 tháng 9 năm 1948, do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) soạn thảo. Tài liệu này đã được giải mật vào năm 2005.

Tóm tắt

Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở những khu vực thuộc địa đã làm sụp đổ phần lớn hệ thống thực dân châu Âu và tạo ra hàng loạt các nhà nước dân tộc chủ nghĩa mới tại vùng Cận và Viễn Đông. Điều này sẽ có tác động lớn đến an ninh Hoa Kỳ, đặc biệt về nguy cơ xung đột quốc tế với Liên Xô.[2] Việc những khu vực thuộc địa thoát khỏi quỹ đạo của các cường quốc thực dân không chỉ làm suy yếu các nước châu Âu có khả năng làm đồng minh với Hoa Kỳ, mà còn lấy đi của Hoa Kỳ quyền tiếp cận chắc chắn đối với những căn cứ trọng yếu và nguồn nguyên liệu thô của khu vực này nếu chiến tranh nổ ra. Nếu những quốc gia mới được giải phóng và hiện đang nổi lên theo phe Liên Xô, an ninh quân sự và kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giành độc lập của các nước thuộc địa. Anh Quốc rút khỏi Ấn Độ-Pakistan và Miến Điện, trong khi Hà Lan và Pháp, với tổn thất nặng nề sau chiến tranh, dường như không thể đàn áp những người yêu nước tại Indonesia và Đông Dương bằng vũ lực, hoặc không thể ngăn cản họ giành được một nền độc lập thực thụ mặc cho những giải pháp thỏa hiệp tạm thời. Chủ nghĩa dân tộc đang lớn mạnh tại thuộc địa Bắc Phi đe dọa quyền bá chủ của Pháp. Mặc dù vấn đề thuộc địa tại phần lớn các quốc gia lệ thuộc còn lại chưa đến mức nghiêm trọng, nhưng chủ nghĩa dân tộc bản địa ở nhiều khu vực trong số này cũng sẽ gia tăng sức ép đòi quyền tự trị hoặc độc lập.

Sự phát triển rõ rệt thời hậu chiến của phong trào độc lập thuộc địa là kết quả của các yếu tố sau: (1) những hoạt động yêu nước bí mật tại Viễn Đông có thể được thực hiện dễ dàng hơn do Nhật Bản bị các cường quốc thực dân đánh bại trong Thế Chiến II, nhờ đó chủ nghĩa dân tộc địa phương tại những khu vực bị chiếm đóng được khuyến khích; (2) sự yếu kém về quân sự và kinh tế của các cường quốc thực dân thời hậu chiến khiến các nước này khó kháng cự những đòi hỏi dân tộc chủ nghĩa, dẫn đến việc nhượng bộ hoặc thậm chí trao trả độc lập cho các nước lệ thuộc; (3) những thành phần theo trường phái tự do-xã hội chủ nghĩa tại các cường quốc thực dân có xu hướng gia tăng ủng hộ việc tự động rút khỏi các nước thuộc địa khó cai quản; (4) phong trào độc lập thuộc địa nhận được sự ủng hộ rộng rãi của nhiều nước mới được giải phóng và các nước ủng hộ khác, đặc biệt là Liên Xô; và (5) Liên Hiệp Quốc được thành lập, trở thành một diễn đàn để thảo luận về vấn đề thuộc địa và cơ chế tiêu trừ nó.

Vì những nhân tố nêu trên, sự tan rã của các đế quốc thực dân còn lại dường như là điều không thể tránh khỏi. Sự nhượng bộ muộn màng của các cường quốc thực dân, ít nhất trên quy mô hạn chế hiện đang được dự liệu, không đáp ứng được nhu cầu độc lập cơ bản và có thể sẽ chỉ đem lại hiệu quả nhất thời, ngoại trừ tại những khu vực lạc hậu hơn. Nói chung, các cường quốc thực dân có vẻ không sẵn lòng công nhận hoàn toàn sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc tại những thuộc địa còn lại và chủ động hướng những nước này tiến tới nền độc lập hoặc tự quản thực thụ.

Do sự sụp đổ mau chóng của hệ thống thuộc địa, một cục diện quyền lực mới đang hình thành tại thế giới thuộc địa cũ. Các cường quốc phương Tây không còn có thể dựa vào những miền đất rộng lớn ở Châu Á và Châu Phi như một nguồn cung dồi dào các nguyên liệu thô, thị trường và căn cứ quân sự. Đối lập với sự sáp nhập mạnh mẽ của các nước vệ tinh vào hệ thống Xô viết, thế giới ngoài Liên Xô đang ngày càng bị chia cắt. Quá trình này gần như đã hoàn tất, với rất nhiều trong số những khu vực thuộc địa và nửa thuộc địa quan trọng nhất, như Ấn Độ, Miến Điện, các quốc gia Ả Rập, và Philippines đã giành được độc lập, Indonesia và Đông Dương cũng đang trên lộ trình. Các nhà nước mới này sẽ được tự do lựa chọn những đồng minh chính trị trong tương lai, mà phần lớn sẽ tùy thuộc vào thái độ của Liên Xô và khối các cường quốc phương Tây đối với vấn đề thuộc địa và những đòi hỏi kinh tế của các nước này.

Phong trào độc lập thuộc địa do vậy không còn đơn thuần là vấn đề nội bộ giữa các cường quốc thực dân châu Âu và các nước lệ thuộc. Nó đã được đưa vào chính trường thế giới rộng lớn hơn và đã trở thành một yếu tố thuộc những vấn đề lớn hơn trong quan hệ giữa các nước phương Đông và phương Tây, giữa các nước công nghiệp hóa và các nước “kém phát triển”, giữa các cường quốc phương Tây và Liên Xô. Các quốc gia mới giành được độc lập và những quốc gia có lịch sử lâu đời hơn thuộc vùng Cận và Viễn Đông đặc biệt cảm thông với khát vọng của những khu vực vẫn còn lệ thuộc, bởi họ có những mối dây liên hệ về chủng tộc và tôn giáo. Các quốc gia này cũng bị ràng buộc hơn nữa ở những cấp độ khác nhau bởi hai vấn đề có xu hướng đặt họ vào thế đối nghịch với các cường quốc thực dân và Hoa Kỳ: đó là chủ nghĩa dân tộc kinh tế đang lớn mạnh tại những khu vực “kém phát triển” và sự đối kháng chủng tộc giữa những người da trắng và người bản địa. Các quốc gia Cận và Viễn Đông, tất cả đều mang tinh thần dân tộc mạnh mẽ, có xu hướng đoàn kết chống lại các cường quốc Tây Âu trong vấn đề thuộc địa và chống lại sự thống trị kinh tế của Hoa Kỳ. Do vậy, đã nảy sinh xu hướng hình thành một “khối thuộc địa” trong Liên Hiệp Quốc và những cơ quan trực thuộc. Các thành viên của khối đã đem những tranh cãi về thuộc địa tới Liên Hiệp Quốc và có khả năng sẽ đi tiên phong trong nỗ lực thúc đẩy việc giải phóng các khu vực thuộc địa khác. Do đó, vấn đề thuộc địa và chủ nghĩa dân tộc kinh tế sẽ tiếp tục trở thành nguồn cơn của mối bất hòa giữa một bên là các nước thực dân và Mỹ, và bên kia là các quốc gia Cận và Viễn Đông. Hiểm họa nghiêm trọng nhất đối với Hoa Kỳ là mối bất hòa bắt nguồn từ những vấn đề này có thể khiến khối thuộc địa theo phe Liên Xô.

Liên Xô đang tận dụng hiệu quả vấn đề thuộc địa và chủ nghĩa dân tộc kinh tế tại những khu vực kém phát triển như một công cụ để chia rẽ thế giới ngoài Xô viết, làm suy yếu các cường quốc phương Tây, và giành lấy thiện chí của những khu vực thuộc địa và thuộc địa cũ. Kể từ Thế Chiến I, Liên Xô đã cố gắng thâm nhập vào các đảng phái dân tộc chủ nghĩa tại những khu vực lệ thuộc, và mới đây đã nhấn mạnh tại Liên Hiệp Quốc tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa và thứ gọi là chủ nghĩa đế quốc kinh tế của các cường quốc phương Tây. Sự nghèo đói và thiệt thòi của người dân ở những khu vực này, sự thù ghét âm ỉ của họ đối với các thế lực xâm chiếm trong quá khứ hay hiện tại, cùng sự tồn tại của các thành phần cánh tả trong nước khiến các nước này trở nên đặc biệt nhạy cảm trước sự xâm nhập của Liên Xô.

Do vậy, thiện chí của các quốc gia mới được giải phóng và các quốc gia độc lập mới nổi trở thành nhân tố thiết yếu cho vị trí chiến lược trong tương lai của Hoa Kỳ tại vùng Cận và Viễn Đông. Ngoài ra, việc khôi phục những đóng góp kinh tế của các nước thuộc địa là rất quan trọng đối với sự ổn định kinh tế tại các nước Tây Âu, điều mà Hoa Kỳ đang nỗ lực tạo ra. Tuy nhiên, những chính sách thuộc địa thiển cận về lâu dài sẽ khiến các cường quốc thực dân đánh mất những lợi thế kinh tế và chiến lược tại những nước thuộc địa mà họ khao khát giữ lại. Do vậy, trừ khi các cường quốc thực dân châu Âu có thể bị thuyết phục để nhận ra sự cần thiết phải thỏa mãn khát vọng của các khu vực lệ thuộc, và có thể tìm được một phương thức để duy trì thiện chí của các quốc gia này khi họ giành được độc lập hoặc mới nổi lên, các cường quốc này cùng với Hoa Kỳ sẽ bị đặt vào thế bất lợi nghiêm trọng trong cục diện quyền lực mới tại vùng Cận và Viễn Đông. Hơn nữa, trừ khi bản thân Hoa Kỳ có một thái độ tích cực và cảm thông hơn đối với khát vọng dân tộc của những khu vực này và đáp ứng ít nhất một phần nhu cầu được hỗ trợ kinh tế của họ, Hoa Kỳ sẽ phải đối diện với nguy cơ bị các nước này chống đối mạnh mẽ.

***

Sự sụp đổ của chế độ thực dân và hệ quả đối với an ninh Hoa Kỳ [1]

1/ Sự phát triển của phong trào độc lập thuộc địa

Một xu hướng chính trong cục diện quyền lực thế giới thế kỷ hai mươi là sự phát triển của phong trào giành độc lập mạnh mẽ ở các thuộc địa, vốn đang trong quá trình phá vỡ hệ thống thực dân và tạo ra một loạt các nhà nước dân tộc chủ nghĩa mới. Nguyên do chính của sự sụp đổ của các đế quốc thực dân châu Âu là sự lớn mạnh của chủ nghĩa dân tộc bản địa ở những khu vực này, cùng lúc với sự suy yếu về sức mạnh và uy tín của các cường quốc thực dân. Sự phát triển ấn tượng của chủ nghĩa dân tộc địa phương chủ yếu là kết quả của: (a) mức độ phát triển chính trị, kinh tế và xã hội tại các nước lệ thuộc tăng lên, khiến họ gia tăng mối nhạy cảm với sự đối xử bất bình đẳng; (b) những chính sách thiển cận của các cường quốc thực dân, trong đó các cường quốc này phân biệt đối xử đối với người dân nước lệ thuộc và khai thác các nguồn tài nguyên thuộc địa mà không đem lại lợi ích cho dân chúng, làm dấy lên sự oán giận mạnh mẽ; (c) sự thù địch chủng tộc bắt rễ sâu của người dân bản địa đối với những người cai trị da trắng dưới hình thức phản đối “tính ưu việt da trắng”, phần lớn do những chính sách đã nhắc đến ở trên; (d) các khu vực thuộc địa được tiếp xúc với các ý tưởng của phương Tây về chủ nghĩa dân tộc và quyền tự quyết, từ đó nhận thức ngày càng sâu sắc về tình trạng lệ thuộc của mình; và (e) sự trỗi dậy thần kì của Nhật Bản sau khi bại trận trước các nước châu Âu trong Chiến tranh Nga-Nhật và đặc biệt là Thế Chiến II đã chọc thủng bức màn huyền thoại về sự ưu việt da trắng. Các cường quốc thực dân, mặc dù đã giúp các nước lệ thuộc tiếp cận với tiến bộ công nghệ và lý tưởng dân chủ của phương Tây, nhưng đã không coi trọng mong muốn của họ trong việc giành đạt được một sự tự biểu hiện dân tộc tính giống như hình mẫu của các nước phương Tây.

Mặc dù chủ nghĩa dân tộc ở những nước thuộc địa và nửa thuộc địa đã đạt được tầm vóc quan trọng ngay từ đầu thế kỷ hai mươi, song nó được thúc đẩy mạnh mẽ hơn cả qua hai cuộc Thế chiến. Hai cuộc chiến này, đặc biệt là Thế Chiến II, đã làm suy yếu nghiêm trọng các cường quốc thực dân, từ đó làm  giảm khả năng kiểm soát thuộc địa bằng vũ lực. Đồng thời, sự lệ thuộc của những cường quốc này vào các nguồn tài nguyên và nhân lực tại thuộc địa đã buộc họ phải nhượng bộ, qua đó giúp thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần dân tộc. Trong Thế Chiến I, Anh Quốc cũng đã thổi bùng những khát vọng dân tộc chủ nghĩa của Ả Rập nhằm đẩy nhanh sự sụp đổ của Đế quốc Ottoman. Việc Tổng thống Wilson nhấn mạnh sự tự quyết của các dân tộc và việc thành lập Hội Quốc Liên đã thúc đẩy mạnh mẽ khát vọng độc lập của các nước thuộc địa.

Giai đoạn giữa hai cuộc chiến chứng kiến sự phát triển hơn nữa của chủ nghĩa dân tộc tại những khu vực lệ thuộc, đặc biệt là ở Cận Đông và Ấn Độ. Cuộc khủng hoảng toàn cầu vào những năm 1930 đã buộc các cường quốc thực dân phải hạn chế việc phát triển thuộc địa và phá vỡ cơ cấu giá nguyên liệu thô trên thế giới; dư âm của nó đã khiến người dân các nước thuộc địa ngày càng oán giận, gây sức ép đòi tự trị và yêu cầu được chia phần lớn hơn từ lợi nhuận khai thác kinh tế. Phẫn uất với sự bất công về chính trị, kinh tế và xã hội mà họ phải gánh chịu, những người theo chủ nghĩa dân tộc bản xứ có xu hướng coi sự kém cỏi của các cường quốc là nguyên nhân gây ra sự đình trệ của các nền kinh tế thuộc địa. Các quốc gia như Iraq và Ai Cập, từng nằm dưới sự giám hộ của Anh Quốc, có xu hướng đi theo một lộ trình độc lập hơn cho những vấn đề của nước họ. Hoa Kỳ đã chuẩn bị để trao trả độc lập cho Philippines, trong khi Anh Quốc buộc phải nhượng bộ trước sức ép ngày càng lớn của chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ. Chính sách cứng rắn của Nhật Bản với luận điệu tuyên truyền nhấn mạnh học thuyết phân biệt chủng tộc “Châu Á thuộc về người Châu Á” đã khích động mạnh mẽ sự thù địch chủng tộc của phương Đông đối với phương Tây.

Thế Chiến II đã thực hiện một cú đánh nữa lên các đế quốc thực dân vốn đang suy yếu. Khi các cường quốc thực dân tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ các thuộc địa Đông Nam Á trước của sự tấn công của Nhật Bản, thì Nhật Bản, lợi dụng cảm xúc của người dân bản địa, đã biến mình thành lực lượng giải phóng các dân tộc châu Á khỏi ách áp bức của người da trắng. Mặc dù Nhật Bản thực chất giữ quyền kiểm soát chặt chẽ tại Đông Nam Á, họ đã trao “nền độc lập” ảo cho Miến Điện, Philippines, Đông Dương và Indonesia, khơi dậy hơn nữa những khát vọng dân tộc chủ nghĩa ở các nước này. Đến cuối cuộc chiến, hầu hết các nước lệ thuộc đồng minh ở Viễn Đông đều hoàn toàn không sẵn sàng trở lại vị thế trước đây của họ, và các nước đồng minh tổn thất nặng nề đã không thể tái thiết lập cục diện cũ (status quo ante). Chính quyền của Đảng Lao động Anh Quốc, do không còn sẵn sàng hoặc không đủ khả năng ngăn chặn đòi hỏi mãnh liệt của những người theo chủ nghĩa dân tộc tại Ấn Độ, đã trao trả độc lập cho Ấn Độ, Pakistan, Miến Điện và quyền tự trị cho Tích Lan (nay là Sri Lanka, chú của người dịch). Nước Pháp suy yếu đã buộc phải trao trả độc lập cho các lãnh thổ ủy trị tại vùng Levant, bao gồm Syria và Lebanon. Hoa Kỳ đã thực hiện lời hứa trao trả tự do cho Philippines. Hàn Quốc được tự do khỏi sự kiểm soát của Nhật Bản. Pháp và Hà Lan, không sẵn sàng trả lại những thuộc địa giàu có ở Đông Nam Á cho những người yêu nước bản địa, đã bị cuốn vào một cuộc tranh giành cam go với các chính thể bản địa được thành lập tại những khu vực này.

2/ Tình hình hiện tại của phong trào độc lập thuộc địa

Do chủ nghĩa dân tộc bản địa được khích động trong những thời kỳ hỗn loạn của chiến tranh và hậu chiến, thế giới thực dân còn lại đang sôi sục với những hoạt động chủ nghĩa dân tộc. Phong trào này đang ở trong những giai đoạn phát triển khác nhau, phụ thuộc phần lớn vào trình độ phát triển chính trị, kinh tế và xã hội tại từng khu vực bản địa, nhưng hầu hết đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là độc lập. Tại những vùng lạc hậu hơn tại châu Á và châu Phi, nơi mà sự tăng trưởng kinh tế và chính trị đang ở trong giai đoạn tương đối sơ khai, chủ nghĩa dân tộc vẫn chưa được định hình. Trong khi đó, tại những khu vực tương đối phát triển như Indonesia, Đông Dương, và Bắc Phi thuộc Pháp, phong trào đã đạt đến giai đoạn trưởng thành.

Hai vấn đề thuộc địa hệ trọng nhất đang xảy ra tại Indonesia và Đông Dương, nơi Hà Lan và Pháp, vốn đang kiệt quệ sau chiến tranh, không thể đàn áp những người bản địa theo chủ nghĩa dân tộc bằng vũ lực, và không đủ sức ngăn cản họ giành lại độc lập, mặc cho những thỏa hiệp tạm thời có thể được đưa ra. Hà Lan và Cộng hòa Indonesia đang nỗ lực đàm phán một thỏa thuận nhằm sáp nhập nước Cộng hòa này vào một Hợp chủng quốc Indonesia do Hà Lan cai quản, đồng thời trao cho nước này quyền tự trị ở mức độ lớn trong mọi lĩnh vực trừ quan hệ đối ngoại và quốc phòng. Tại Đông Dương, Pháp không thể đàn áp lực lượng Việt Minh theo chủ nghĩa dân tộc cũng như không thể đạt được một thỏa thuận được cả hai bên chấp thuận. Nền kinh tế Pháp vốn không ổn định nay gặp tình trạng căng thẳng kéo dài vì những khoản chi tiêu cho việc bình định, do đó, có khả năng là Pháp cuối cùng sẽ phải nhượng bộ hoàn toàn trước những người yêu nước. Điều này sẽ tạo nên một bước tiến nữa trên con đường đến độc lập.

Trong khi chủ nghĩa dân tộc tại Bắc Phi thuộc Pháp chưa đạt đến giai đoạn đấu tranh, sự phát triển của những phong trào chiến đấu giành độc lập tại Algeria, Morocco và Tunisia là mối nguy lớn dần đối với quyền bá chủ của Pháp. Tại Tunisia và Morocco, cả hai nước đều nằm dưới chế độ bảo hộ của Pháp, những người theo chủ nghĩa dân tộc đã tập trung vào việc khôi phục chủ quyền quốc gia dưới triều đại đương thời. Một cơ quan đã được thành lập tại Cairo, nơi những nhà lãnh đạo lưu vong của Bắc Phi như Abd-el-Krim hoạch định đường lối dân tộc chủ nghĩa. Chủ nghĩa dân tộc tại Bắc Phi thuộc Pháp được thúc đẩy bởi mối ràng buộc Hồi giáo với Liên đoàn Ả-Rập theo chủ nghĩa Sô-vanh. Liên đoàn này, mặc dù cho đến nay chưa thể hiện nhiều sự ủng hộ công khai đối với chủ nghĩa dân tộc Bắc Phi, nhưng được trông đợi sẽ xúc tiến hoạt động của họ ngay sau khi vấn đề cấp bách hơn của Palestine được giải quyết. Chủ nghĩa dân tộc đang nổi lên tại Libya, đặc biệt là trong những bộ tộc Senussi ở vùng Cyrenaica, đang làm phức tạp hóa tình hình ở thuộc địa cũ này của Italy.

Mặc dù chủ nghĩa dân tộc ở những khu vực lệ thuộc khác chưa đạt đến mức hệ trọng, nhưng tại một số vùng đã xuất hiện những phong trào được định hình rõ ràng, cảnh báo những vấn đề tương tự. Tại hầu hết các khu vực này, người dân đang đòi hỏi một mức độ tự trị lớn hơn, hơn là đòi hỏi độc lập ngay lập tức. Tại Mã Lai, cho đến nay, tính đa dạng của dân số và sự sáng suốt tương đối của chính quyền thực dân Anh đã trì hoãn sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa dân tộc, nhưng thắng lợi của những khu vực lân cận trong việc giành lấy quyền tự quyết đã thúc đẩy phần nào xu thế này. Việc Pháp đàn áp cuộc nổi dậy tại Madagascar năm 1947 đã trì hoãn phong trào dân tộc chủ nghĩa Malagasy được vài năm, nhưng căng thẳng sẽ lại tái diễn. Tại những vùng thuộc địa Trung Phi còn khá lạc hậu, trình độ phát triển thấp đã hạn chế sự mở rộng của chủ nghĩa dân tộc, và tình hình này sẽ còn tiếp diễn lâu dài. Phong trào Zik tại Nigeria và Đảng Hiệp ước Bờ biển Vàng Thống nhất (United Gold Coast Convention) của Ghana, tuy không quá lớn mạnh, nhưng lại là ví dụ cho những phong trào dân tộc chủ nghĩa đang trỗi dậy tại khu vực.

3/ Vấn đề thuộc địa trong chính trị thế giới 

Phong trào độc lập thuộc địa không còn đơn thuần là vấn đề nội bộ giữa các cường quốc thực dân châu Âu và các nước lệ thuộc. Nó đã được đưa vào chính trường thế giới rộng lớn hơn và đã trở thành một yếu tố thuộc những vấn đề lớn hơn trong quan hệ giữa các nước phương Đông và phương Tây, giữa các nước công nghiệp hóa và các nước “kém phát triển”, giữa các cường quốc phương Tây và Liên Xô.

a. Sự hỗ trợ từ bên ngoài đối với các phong trào giành độc lập

Các quốc gia mới giành được độc lập và những quốc gia có lịch sử lâu đời hơn thuộc vùng Cận và Viễn Đông đặc biệt cảm thông với khát vọng của những khu vực vẫn còn lệ thuộc, bởi họ có những mối dây liên hệ về chủng tộc và tôn giáo. Đều mang tinh thần dân tộc mạnh mẽ, các nước này phẫn nộ với sự thống trị chính trị và kinh tế của các cường quốc châu Âu tại những khu vực lân cận. Các quốc gia như Ấn Độ và Ai Cập đã mang vấn đề thuộc địa ra trước Liên Hiệp Quốc và ngày càng được trông đợi sẽ là lá cờ đầu trong nỗ lực thúc đẩy công cuộc giải phóng các khu vực thuộc địa còn lại bằng cách này và cách khác. Hơn nữa, nhiều quốc gia trong số này đang lợi dụng vấn đề thuộc địa để trục lợi cho nước mình, nhằm hất cẳng các cường quốc phương Tây tại một số khu vực nhất định. Ấn Độ và Trung Quốc đều có tham vọng thống trị Đông Nam Á, Trung Quốc cũng có tham vọng thay thế ngôi vị cường quốc Viễn Đông của Nhật Bản. Một vài quốc gia phương Đông thèm muốn phần chia từ những đế quốc thực dân suy tàn: Ai Cập – Sudan và Cyrenaica; Ethiopia – các nước lân cận trước đây là thuộc địa của Ý; và Trung Quốc – Hồng Kông.

Do đó, vấn đề thuộc địa sẽ là mối bất hòa chính giữa các cường quốc Tây Âu và những quốc gia đang nổi lên tại vùng Cận và Viễn Đông. Nếu Hoa Kỳ hỗ trợ các cường quốc châu Âu về vấn đề này, Hoa Kỳ sẽ phải hứng chịu thái độ thù ghét từ các quốc gia dân tộc chủ nghĩa mới này.

b. Chủ nghĩa dân tộc kinh tế và vấn đề thuộc địa

Các quốc gia ủng hộ phong trào độc lập thuộc địa bị ràng buộc với nhau bởi một vấn đề chính yếu khác, liên quan mật thiết tới cuộc đấu tranh giành độc lập chính trị, và có chiều hướng làm gia tăng thái độ thù nghịch đối với các cường quốc Tây Âu và Hoa Kỳ. Đó là sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc kinh tế tại những nước “kém phát triển”, điều này hiện diện rõ hơn kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Những nước này, phần lớn từng là thuộc địa, nhận ra rằng dù họ đã đạt được sự độc lập chính trị, nhưng nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu chỉ sản xuất nguyên liệu thô và nông sản, vẫn bị trói buộc với nền kinh tế của các quốc gia công nghiệp hóa phương Tây đang cung cấp thị trường cho hàng hóa của họ. Về cơ bản, các nước này vẫn là những khu vực nửa thuộc địa, do sự phụ thuộc kinh tế của họ vào những nền kinh tế lớn có xu hướng làm vô hiệu hóa sự độc lập chính trị của họ. Do đó, những người yêu nước bản địa không hoàn toàn thỏa mãn với việc giành được độc lập chính trị, họ yêu cầu cả sự độc lập kinh tế.

Mục tiêu của chủ nghĩa dân tộc kinh tế là đạt được sự tự chủ kinh tế lớn hơn thông qua việc phát triển một nền kinh tế đa dạng, thường bằng con đường công nghiệp hóa. Chủ nghĩa này đã khiến các quốc gia kém phát triển ủng hộ thuế quan, đặt ra hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào thương mại khác nhằm bảo vệ nền công nghiệp còn non yếu. Thái độ này không chỉ là đặc trưng của các quốc gia mới được giải phóng mà còn của các quốc gia giành độc lập đã lâu, như những nước châu Mỹ La tinh vẫn sở hữu nền kinh tế bán thuộc địa. Điều này đã được thể hiện rõ ràng nhất tại Hội nghị Thương mại Havana mới đây, nơi các quốc gia kém phát triển kịch liệt phản đối thương mại tự do đa phương và cáo buộc Hoa Kỳ cùng các quốc gia công nghiệp khác đang cản trở sự phát triển kinh tế của họ nhằm khiến họ bị lệ thuộc vĩnh viễn.

Do những bộ phận lớn nhất của hệ thống thuộc địa đã được giải phóng hoặc đang trong giai đoạn cuối của công cuộc giải phóng, khía cạnh kinh tế của vấn đề thuộc địa trở nên ngày càng quan trọng. Chủ nghĩa dân tộc kinh tế tại những quốc gia kém phát triển mâu thuẫn sâu sắc với mục tiêu thương mại của Hoa Kỳ và những nước này có xu hướng oán ghét sự thống trị kinh tế của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, họ lại cần sự hỗ trợ cấp bách từ bên ngoài để phát triển kinh tế, mà Hoa Kỳ hiện là quốc gia duy nhất đủ khả năng cung cấp sự hỗ trợ đó. Mong muốn vay nợ và đầu tư tư nhân từ Hoa Kỳ sẽ có chút tác dụng làm dịu bớt thái độ đối kháng của những nước này đối với chính sách của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các quốc gia kém phát triển đang thể hiện khuynh hướng ngày càng rõ rệt đòi hỏi viện trợ từ Hoa Kỳ như một quyền đương nhiên, mà không tính đến sự nhượng bộ nào từ phía mình,  và cảm nhận rằng Hoa Kỳ sẽ buộc phải đầu tư tại nước ngoài do nhu cầu nội bộ cho nguồn vốn hiện tại là không đủ.

c. Vấn đề thuộc địa tại Liên Hiệp Quốc

Vấn đề thuộc địa đang được bàn đến nhiều hơn tại Liên Hiệp Quốc, nơi những người bản địa đấu tranh cho độc lập và những người ủng hộ họ đã tìm ra một diễn đàn lý tưởng để tranh luận về vấn đề thuộc địa. Có một khuynh hướng rõ rệt về việc thành lập tại Liên Hiệp Quốc một “khối” thuộc địa bao gồm những nước lệ thuộc trước đây như Ấn Độ và các quốc gia Ả Rập, cùng những nước khác như Trung Quốc và Iran với mối đồng cảm chủng tộc và tôn giáo mạnh mẽ với những dân tộc thuộc địa (cũng là đặc trưng của nhóm đầu tiên), và nhóm thứ ba gồm nhiều nước cộng hòa châu Mỹ La Tinh và Australia, với niềm cảm thông dựa trên nền tảng tự do, nhân đạo và kinh tế. Khối thuộc địa đã kiên định tìm cách mở rộng hệ thống ủy trị của Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc, Ấn Độ, Liên Xô, Philippines và các quốc gia Ả Rập cho rằng Điều 73 trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc, trong đó quy định các thành viên phải thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của vấn đề tự trị tại các nước lệ thuộc, ngụ ý rằng Liên Hiệp Quốc nên có quyền hạn giám sát lớn đối với các nước lệ thuộc này. Những tình huống thuộc địa nguy cấp như vấn đề Indonesia và việc Ai Cập đòi hỏi Anh Quốc rút quân đã được trình bày trước Hội Đồng Bảo An như một mối đe dọa tiềm tàng đối với hòa bình thế giới. Các nước kém phát triển đã kiên quyết nhấn mạnh vấn đề kinh tế của nước họ trước những cơ quan kinh tế của Liên Hiệp Quốc. Do đó, thông qua Liên Hiệp Quốc, vấn đề thuộc địa đã được đặt trực tiếp lên vũ đài thế giới và những vấn đề thuộc địa địa phương đã trở thành nội dung của mối quan tâm quốc tế. “Khối” thuộc địa và Liên Xô được dự đoán sẽ đưa ngày càng nhiều những vấn đề như vậy ra trước Liên Hiệp Quốc và nỗ lực dùng chúng như một cơ chế loại trừ các đế quốc thực dân.

d. Liên Xô lợi dụng vấn đề thuộc địa

Liên Xô đang khai thác một cách hiệu quả vấn đề thuộc địa và vấn đề đồng minh của chủ nghĩa dân tộc kinh tế và sự đối kháng chủng tộc trong nỗ lực chia cắt thế giới ngoài Xô viết, làm suy yếu các nước đồng minh châu Âu của Hoa Kỳ, và giành được thiện chí của “khối” thuộc địa. Nhằm theo đuổi những mục tiêu trên, Liên Xô đang: (1) chủ động hỗ trợ các phong trào dân tộc chủ nghĩa trên khắp thế giới thuộc địa thông qua những kẻ kích động, tuyên truyền, và các đảng phái Cộng sản địa phương; và (2) kiên trì đưa vấn đề thuộc địa và Đồng minh ra trước Liên Hiệp Quốc và các hoạt động liên quan.

Chế độ Xô Viết đã luôn nhìn nhận “các khu vực suy yếu” như một mảnh đất màu mỡ để xâm nhập, và kể từ năm 1918 Quốc tế Cộng sản đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khơi dậy sự bất bình tại các khu vực này. Với tư cách là một cường quốc phi thực dân, Liên Xô đang ở vị thế thích hợp để ủng hộ hoàn toàn cho sự nghiệp giải phóng thuộc địa, qua đó giành được thiện chí của các khu vực thuộc địa và cựu thuộc địa. Việc Liên Xô lên án nạn phân biệt chủng tộc đã làm hài lòng những người bản xứ đấu tranh giành độc lập và có khuynh hướng loại trừ Liên Xô khỏi mối ác cảm chủng tộc của phương Đông đối với phương Tây. Những người Cộng sản đã cố gắng thâm nhập vào các nhóm dân tộc chủ nghĩa tại các thuộc địa và cựu thuộc địa, và trở thành một trong những lực lượng khích động cuộc đấu tranh giành độc lập quyết liệt nhất, như ở Miến Điện, Indonesia và Đông Dương. Liên Xô nhận thấy Liên hiệp Công đoàn Thế giới là một vũ khí hiệu quả để thâm nhập vào phong trào lao động đang lớn mạnh tại châu Á và châu Phi, cũng như để khích động hai khu vực này chống lại các cường quốc thực dân.

Tại Hội nghị San Francisco nơi Hiến chương Liên Hiệp Quốc được định ra, Liên Xô đã đấu tranh để đạt được một điều khoản yêu cầu dứt khoát nền độc lập cuối cùng cho toàn bộ các nước thuộc địa. Kể từ đó, Liên Xô đã thường xuyên đưa vấn đề thuộc địa vào các cuộc thảo luận của Liên Hiệp Quốc và tích cực ủng hộ “khối” thuộc địa trong tất cả các vấn đề về thuộc địa và đồng minh. Việc Liên Xô nhất mực ủng hộ “khối” thuộc địa trong những vấn đề thuộc địa đơn thuần có thể sẽ lôi kéo thêm nhiều người từ “khối” này đứng về phía Liên Xô trong những vấn đề chính khác giữa Liên Xô và các nước phương Tây tại Liên Hiệp Quốc. Do vậy, Liên Xô nhận thức rõ vấn đề thuộc địa có tiềm năng làm suy yếu các đối thủ của mình, và coi nó là một thành tố quan trọng trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các cường quốc phương Tây và Liên Xô.

(còn nữa)

 

RELATED ARTICLES

Tin mới