Friday, April 26, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTQ sẽ dùng vũ lực thống nhất Đài Loan vào năm 2021

TQ sẽ dùng vũ lực thống nhất Đài Loan vào năm 2021

Sau khi Chủ tịch Trung Quốc liên tục đưa ra yêu cầu thống nhất với Đài Loan, đã có nhiều đồn đoán cho rằng Bắc Kinh sẽ sử dụng mọi biện pháp, bao gồm vũ lực để thống nhất với Đài Loan.

Thời điểm thống nhất Đài Loan

Nhiều nguồn tin từ nội bộ chính phủ Trung Quốc cho rằng nền dân chủ Đài Loan không còn nhiều thời gian. Họ ám chỉ rằng Chủ tịch Tập Cận Bình đang “mất kiên nhẫn” và có thể ra lệnh xâm chiếm Đài Loan vào đầu những năm 2020. Điểm nóng nguy hiểm nhất của thế giới này có thể phải chứng kiến một cuộc đổ bộ chớp nhoáng, có thể là trước tháng 7/2021 khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) kỷ niệm 100 năm thành lập.

Thực tế là Trung Quốc có thể sẽ không tấn công Đài Loan theo cách quyết liệt và rủi ro cao như vậy. Tập Cận Bình và các tướng lĩnh quân đội hàng đầu của ông nhiều khả năng sẽ lên kế hoạch và leo thang một cuộc chiến cân não xuyên eo biển Đài Loan. Họ sẽ tiếp tục sử dụng việc tung tin tức giả để đánh lạc hướng cùng nhiều kỹ thuật khác nhằm khiến Washington dần mất đi sự tự tin rằng Đài Loan có thể được bảo vệ, trong khi tăng cường các hoạt động nhằm làm xói mòn sự tự tin và sức mạnh ý chí của hòn đảo này.

Ông Tập Cận Bình sẽ chờ cơ hội tốt và hy vọng rằng chính phủ Đài Loan sẽ đổ vỡ dưới sức ép không ngừng gia tăng, giúp ông đạt được mục tiêu với cái giá rẻ hơn. Trong khi đó, các tướng lĩnh quân sự của ông sẽ tiếp tục lên kế hoạch và chuẩn bị thực hiện sứ mệnh “cao cả” của họ. Hành động ép buộc có thể dễ dàng thất bại, do đó xâm lược trở thành một lựa chọn hấp dẫn – đặc biệt trong bối cảnh cân bằng sức mạnh có lợi cho Bắc Kinh hơn hiện nay.

Trong khi đó, Cơ quan quốc phòng Đài Loan (31/8) công bố báo cáo quốc phòng năm 2018. Báo cáo này tiết lộ, quân đội Trung Quốc có kế hoạch sử dụng vũ lực tấn công toàn diện nhằm thống nhất Đài Loan vào trước năm 2020 với bốn hình thức tác chiến có thể xảy ra gồm răn đe liên hợp – tác chiến phong tỏa – tấn công hỏa lực và tấn công chiếm đảo liên hợp. Theo cơ quan quốc phòng Đài Loan, thống nhất Đài Loan là sứ mệnh không đổi của đảng Cộng sản Trung Quốc. Nếu một ngày Đài Loan tuyên bố độc lập, nội bộ Đài Loan bất ổn, Đài Loan sở hữu vũ khí hạt nhân, đối thoại thống nhất hòa bình hai bờ eo biển bị trì hoãn, thế lực nước ngoài can thiệp công việc nội bộ Đài Loan, quân đội nước ngoài đồn trú ở Đài Loan… đều có thể trở thành cái cớ để Bắc Kinh tấn công Đài Loan. Cơ quan này nhấn mạnh, những động thái gần đây của chính phủ Trung Quốc như triển khai tuần tra quanh đảo Đài Loan, huấn luyện biển xa ở khu vực Tây Thái Bình Dương và diễn tập tác chiến giả định tấn công Đài Loan đều cho thấy, Bắc Kinh tiếp tục duy trì nghiên cứu phát triển vũ khí và công nghệ quân sự nhằm chuẩn bị cho chiến tranh. Tuy nhiên, Đài Bắc cho rằng, trong chiến tranh Đài Loan nếu xảy ra, chiến thuật tấn công chiếm đảo và năng lực hậu cần của Bắc Kinh sẽ gặp trở ngại do điều kiện địa lý tự nhiên của eo biển Đài Loan nên khả năng cao quân đội Trung Quốc sẽ áp dụng hình thức răn đe quân sự liên hợp, tác chiến phong tỏa và tấn công hỏa lực.

Đài Loan không dễ bị tấn công

Trong khi đó, Đài Loan đang ở giai đoạn cuối của sự chuyển giao từ một lực lượng quân sự dựa trên chế độ tòng quân bắt buộc sang một quân đội hoàn toàn tự nguyện. Xây dựng một lực lượng ưu tú bao gồm những bính sỹ chuyên nghiệp là một điều tốt. Điều này sẽ giúp Đài Loan có một lợi thế cạnh tranh. Phần lớn quân đội của Trung Quốc phải dựa vào lính nghĩa vụ ngắn hạn.

Theo báo cáo gần đây của RAND, Đài Loan có thể củng cố quân đội tình nguyện của mình bằng các lực lượng dự trữ, giúp tăng cường hơn nữa khả năng chống lại các mối đe dọa từ Trung Quốc. Các lực lượng vũ trang của Đài Loan cũng có thể được lợi từ những cơ hội huấn luyện mới. Các cuộc tập trận huấn luyện song phương và các sứ mệnh nhân đạo chung với quân đội Mỹ là “liều thuốc” mà Đài Loan đang rất cần.

Các cuộc chiến hiện đại ngày càng được quyết định không phải bởi sức mạnh, mà bằng sức mạnh trí tuệ. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua hoạt động huấn luyện. Một trong những mục tiêu phòng thủ quan trọng của Đài Loan là giúp hòn đảo này chuẩn bị trước cú sốc là một cuộc chiến tranh chớp nhoáng từ PLA. Để làm được điều đó, Đài Loan cần nhân lực có động cơ hành động cao, những người có tổ chức, được huấn luyện và trang bị để đối phó với một chiến dịch xâm lược.

Sự bất cân đối về quy mô và sức mạnh kinh tế ở hai bờ Eo biển Đài Loan khiến các nhà hoạch định chính sách quốc phòng tại Đài Loan phải tìm cách tận dụng mọi sức mạnh họ có. Chiến lược phòng thủ tổng lực của Đài Loan kêu gọi điều động toàn bộ hòn đảo này, vận động sự ủng hộ của tất cả người dân trong một chiến dịch chống xâm lược. Lauren Dickey, làm việc tại Kings College London, cho biết Cơ quan Phòng vệ của Đài Loan (MND) liên tục tìm cách tăng cường khả năng đẩy lùi cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Hàng năm, MND đều tiến hành các cuộc tập trận quân sự nhằm kiểm tra và củng cố các kế hoạch bảo vệ hòn đảo Đài Loan trong trường hợp bị kẻ thù xâm nhập.

Theo ước tính, Đài Loan sẽ nhận được cảnh báo trước 4 tuần về một cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Do Trung Quốc nổi tiếng là nhiều “mưu kế”, Đài Loan cũng không thể tin tưởng hoàn toàn vào sự ước tính này. Tuy nhiên, với quy mô to lớn của các chiến dịch đổ bộ (nếu xảy ra) của PLA, chắc chắn những ý định tấn công sẽ được báo hiệu trước.

Các dấu hiệu cảnh báo có thể bao gồm di chuyển quân đội, điều động quân dự phòng, dự trữ công nghiệp, tập trận quân sự, những tín hiệu trên truyền thông, các thông điệp ngoại giao và các hoạt động phá hoại ngầm chống lại Đài Loan. Dấu hiệu rõ ràng và đáng lo ngại nhất sẽ là việc tập trung các hạm đội lớn bao gồm cả tàu hải quân và tàu dân sự tại các khu vực tập kết ở phía Đông Nam Trung Quốc.

Nếu điều đó xảy ra, lãnh đạo Đài Loan – bà Thái Anh Văn – và các nhân vật cấp cao sẽ cùng hội ý và tìm ra cách thức đáp trả. Họ có thể sẽ cân nhắc những tin tức tình báo thu nhận được từ hệ thống rada, vệ tinh, các điểm nghe ngóng hoạt động của địch, và các điệp viên hoạt động ở Trung Quốc. Lựa chọn nhiều khả năng xảy ra nhất sẽ là tăng cường mức độ sẵn sàng và điều động toàn bộ hòn đảo để đánh bại một cuộc tấn công từ kẻ thù.

Kịch bản nào cho cuộc tấn công đổ bộ vào Đài Loan

Phó Giáo sư Michael Beckley, Đại học Tufts của Mỹ, cho rằng lực lượng phòng vệ Đài Loan có thể đẩy lùi hoàn toàn các cuộc tấn công của Trung Quốc bằng chiến lược chống xâm nhập/chống tiếp cận khu vực (A2/AD) với sự hỗ trợ tối thiểu của Mỹ. Với sự hậu thuẫn của Mỹ, Đài Loan gần đây đang tăng cường nỗ lực nhằm cân bằng sức mạnh quân sự ở Đông Á. Cán cân sức mạnh này sẽ ổn định trong vài năm tới, vì Trung Quốc chưa đủ khả năng triển khai sức mạnh cần thiết để áp đảo năng lực A2/AD của Đài Loan. Chiến lược A2/AD thường được Trung Quốc sử dụng để ngăn Mỹ can thiệp vào mọi cuộc xung đột khu vực hoặc khiến Mỹ trả giá đắt nếu tham chiến. Tuy nhiên, Washington và các đồng minh châu Á cũng có thể áp dụng trở lại chiến lược này để đối phó Trung Quốc.

Theo đó, thay vì tìm cách chiếm ưu thế trên không và trên biển theo chiến thuật truyền thống, lực lượng phòng vệ Đài Loan có thể áp dụng các biện pháp để phong tỏa vùng trời, vùng biển trước các lực lượng đổ bộ của Trung Quốc. Để tấn công được Đài Loan, quân đội Trung Quốc sẽ phải tiến hành chiến dịch cơ động lực lượng vượt qua eo biển và đổ bộ lên các đảo nhỏ vòng ngoài trước khi tiến tới đảo chính. Đây sẽ là thách thức rất lớn với quân đội Trung Quốc, bởi hoạt động đổ bộ từ biển luôn là hình thức tác chiến khó khăn nhất. Lực lượng tấn công của Trung Quốc sẽ rất dễ bị các loại vũ khí dẫn đường chính xác của Đài Loan tập kích khi đang cơ động vượt eo biển. Do đó, để chiến dịch thành công, Bắc Kinh sẽ phải hoàn toàn chiếm ưu thế trên không và kiểm soát vùng biển trong khu vực. Nếu Đài Loan sở hữu các vũ khí diệt hạm và phòng không uy lực mạnh, Trung Quốc sẽ không thể thực hành tấn công đổ bộ do những vũ khí này có thể tiêu diệt tàu đổ bộ khi chúng di chuyển qua eo biển.

Để có thể phá hủy năng lực phòng thủ của Đài Loan và đảm bảo chiến dịch đổ bộ thành công, Trung Quốc phải giữ được yếu tố bất ngờ về thời điểm tấn công và đồng loạt phóng nhiều tên lửa vượt eo biển để tiêu diệt các tổ hợp phòng không, diệt hạm hay sân bay quân sự của đối phương. Tuy nhiên, nếu được cảnh báo trước về cuộc tấn công, Đài Loan có thể phân tán chiến đấu cơ đến 36 sân bay quân sự trên hòn đảo, chưa kể một loạt sân bay dân sự và đường cao tốc cũng có thể được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Đài Loan cũng có các bệ phóng tên lửa di động và vũ khí phòng không cũng như tàu chiến và tàu ngầm đối phó đòn phủ đầu bằng tên lửa của Trung Quốc. Trung Quốc hầu như không thể loại bỏ toàn bộ hệ thống phòng thủ của đối phương trong đòn tấn công phủ đầu, bởi Đài Loan hiện sở hữu các hệ thống cảnh báo sớm tối tân.

Quân đội Trung Quốc vốn chưa từng tham gia cuộc chiến lớn nào trong ba thập kỷ qua cũng không thể đảm bảo được rằng sẽ thành công trong chiến dịch tấn công đổ bộ vào Đài Loan. Chỉ 10% bờ biển Đài Loan thích hợp cho hoạt động đổ bộ, nên nếu tập trung lực lượng phòng thủ ở một số khu vực trọng yếu, Đài Loan hoàn toàn có thể áp đảo lực lượng đổ bộ Trung Quốc.

Trong chiến lược phòng thủ kiểu A2/AD này, Mỹ không cần triển khai tàu sâu bay hay tiêm kích tới eo biển Đài Loan để hỗ trợ đồng minh và hứng chịu rủi ro  lớn về con người và vũ  khí. Quân đội Mỹ có thể sử dụng năng lực trinh sát, do thám và cảnh báo tầm xa của mình để cung cấp thông tin về hoạt động điều chuyển lực lượng của Trung Quốc, cũng như dữ liệu mục tiêu để lực lượng phòng vệ Đài Loan có thể phong tỏa vùng biển, vùng trời xung quanh hòn đảo. Trong trường hợp cần thiết, Mỹ có thể dùng các loại máy bay tàng hình tối tân như oanh tạc cơ B2, tiêm kích F-35 hoặc tàu ngầm lớp Ohio để tấn công các lực lượng đổ bộ của Trung Quốc tại bờ biển Đài Loan, giúp đồng minh đẩy lùi cuộc tấn công quy mô lớn.

Tuy nhiên, theo nhà bình luận quân sự Denny Roy, khi phát động chiến dịch đổ bộ nhằm tấn công Đài Loan, quân đội Trung Quốc sẽ phải đối mặt với thách thức đầu tiên là các hệ thống phòng thủ bờ biển của hòn đảo. Các tàu đổ bộ vốn di chuyển chậm chạp của Trung Quốc khi vượt qua eo biển rộng 160 km sẽ trở thành mục tiêu cho các loại tên lửa đất đối hải của Đài Loan. Trung Quốc chỉ có khả năng vận chuyển khoảng vài chục nghìn quân cho mỗi lần đổ bộ. Phần lớn số binh sĩ này sẽ không qua được eo biển và số còn lại sẽ phải đối mặt với lực lượng áp đảo gồm 180.000 lính chính quy và 1,5 triệu quân dự bị của Đài Loan. Để giảm thiểu rủi ro, quân đội Trung Quốc có thể không ngay lập tức đổ bộ trực tiếp vào Đài Loan, mà sẽ đột kích chiếm các đảo nhỏ xung quanh, tiến hành phong tỏa hải cảng, sân bay, tấn công hệ thống thông tin liên lạc trước khi trút tên lửa xuống hòn đảo.

Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự kéo dài sẽ gia tăng khả năng Mỹ có biện pháp can thiệp để bảo vệ Đài Loan. Nếu Washington quyết định can thiệp, máy bay chiến đấu Mỹ từ các căn cứ trong khu vực chỉ mất vài giờ để vận chuyển lực lượng tiếp viện, khí tài đến Đài Loan. 

Trung Quốc có thể phóng tên lửa phá hủy các đường băng ở Đài Loan để ngăn cản tạm thời các chiến đấu cơ Mỹ hạ cánh xuống hòn đảo, nhưng điều này sẽ làm giảm số lượng tên lửa tấn công Đài Loan. Việc máy bay Mỹ bị tấn công cũng tăng nguy cơ khiến các đồng minh của Mỹ trong khu vực như Nhật Bản tham chiến.

Roy nhận định một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành công trong hành động quân sự của Trung Quốc đối với Đài Loan là phản ứng của Mỹ. Chính phủ Mỹ cho đến nay luôn có những biện pháp hỗ trợ Đài Loan nâng cao khả năng phòng thủ và ngăn chặn một đợt tấn công từ Bắc Kinh.

Theo hầu hết giới phân tích quân sự, để thành công trong việc thống nhất Đài Loan, Bắc Kinh phải ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ hoặc đánh bại các lực lượng quân sự của Washington xung quanh hòn đảo này, đồng thời phải ngăn cản các lực lượng khác tiến vào khu vực. Reuters nhận định Trung Quốc đại lục vẫn chưa đủ mạnh để làm được điều này, song sự nâng cao về năng lực quân sự có thể vẫn cho phép Bắc Kinh giành được phần thắng. Chắc chắn, những toan tính của quân đội Trung Quốc sẽ ngày càng tập trung vào kịch bản xung đột quân sự, trong đó Bắc Kinh vừa muốn thống nhất lãnh thổ vừa đẩy lùi các lực lượng của Mỹ trong khu vực.

Giới phân tích nhận định kế hoạch thống nhất Đài Loan là sự tính toán về địa chính trị của chính quyền Trung Quốc. Suốt hơn 50 năm qua, mặc dù không thể cản trở Đài Loan phát triển như một vùng lãnh thổ độc lập, song Bắc Kinh vẫn tìm cách ngăn Đài Bắc đưa ra tuyên bố độc lập chính thức. Xét trên phạm vi nào đó, các động thái của Bắc Kinh, như sự cứng rắn ngày càng tăng về quân sự thông qua việc đưa tàu chiến và máy bay tới gần Đài Loan, là nhằm nhắc nhở những người cầm quyền tại Đài Bắc rằng bất kỳ cuộc bỏ phiếu nào giành độc lập trên hòn đảo này cũng sẽ dẫn tới chiến tranh. Hơn nữa, Trung Quốc đang muốn khẳng định vị thế của nước này như một cường quốc toàn cầu. Do vậy Bắc Kinh muốn chứng minh cho thế giới thấy rằng nước này đủ mạnh để thống nhất Đài Loan bất kể khi nào họ muốn.

Giới chuyên gia cũng nhận định nguy cơ Trung Quốc tấn công Đài Loan là có thật nhưng Đài Bắc đủ sức tự vệ và nhất là cơ trí để không tạo cớ cho Bắc Kinh sử dụng vũ lực. Việc Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kêu gọi chuẩn bị chiến tranh và không loại trừ biện pháp sử dụng vũ lực để thống nhất Đài Loan chỉ là hù dọa tinh thần đối với Đài Bắc, vì: (i) Chuyên gia Bonnie Glaser, thuộc viện nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS nhận định Hải Quân Trung Quốc không dám đụng với Hải Quân Mỹ. Mỹ sẽ can thiệp theo đạo luật bảo vệ nền dân chủ Đài Loan và xác suất Trung Quốc tấn công rất thấp bởi vì Đài Loan không để cho đối phương chụp lấy cơ hội sơ hở để tấn công. (ii) Về quân sự, Đài Loan đủ khả năng đẩy lùi Trung Quốc mà không cần sự trợ giúp của Mỹ. Quân đội Đài Loan thiện chiến hơn và có tinh thần chiến đấu cao hơn quân đội Trung Quốc. Về chính trị,Tổng thống Thái Anh Văn, tuy cương quyết khước từ đề xuất “một quốc gia hai chế độ”, cố gắng “duy trì nguyên trạng” tại eo biển Đài Loan trong khi mục tiêu của Tập Cận Bình là làm “thay đổi nguyên trạng”. Đảng Dân Tiến cũng có một chiến thuật khôn ngoan sau thất bại trong cuộc bầu cử địa phương hồi tháng 11/2018, khiến tổng thống Thái Anh Văn phải từ chức chủ tịch đảng. Ngày 06/01/2019, ông Trác Vinh Thái, một nhân vật ôn hoà, nguyên là tổng thư ký phủ tổng thống, được gần 25.000 đảng viên, hơn 72%, bầu làm tân chủ tịch. Ý nghĩa chính trị quan trọng trong chiến thắng này của vị giáo sư hải dương học 59 tuổi là ông đánh bại đối thủ là một người trong đảng kịch liệt chống đối tổng thống Thái Anh Văn. Việc ông Trác Vinh Thái thay thế bà Thái Anh Văn cho thấy Đảng Dân Tiến chọn con đường tiếp nối và sẽ làm cho các nước khác yên tâm.

Đáng chú ý, có ý kiến cho rằng Đài Loan và Trung Quốc sẽ giữ nguyên trạng. Trung Quốc sẽ không tấn công Đài Loan trong tương lai trung hạn nhưng Bắc Kinh sẽ gia tăng áp lực. Áp lực này tùy thuộc vào tình hình chính trị tại Đài Loan, tùy theo kết quả bầu cử tổng thống vào tháng giêng 2020. Bà Thái Anh Văn sẽ tái đắc cử hay một nhân vật khác hữu hảo với Bắc Kinh. Chúng ta cũng không thể loại trừ khả năng hồ sơ Đài Loan trở thành một vấn đề trong nội bộ chế độ Trung Quốc: một bộ phận quân đội và dân chúng có tư tưởng Hán tộc cực đoan sẽ gây sức ép với ban lãnh đạo Trung Quốc để động binh đánh Đài Loan. Tuy nhiên, vào thời điểm này, khó mà dự đoán một cách chính xác chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai nhưng điều chắc chắn là vấn đề Đài Loan sẽ tồn tại lâu dài trong quan hệ hai bờ eo biển.

RELATED ARTICLES

Tin mới