Saturday, April 27, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaHiểu thế nào về nguyên tắc tự do biển cả trong luật...

Hiểu thế nào về nguyên tắc tự do biển cả trong luật quốc tế

Nguyên tắc tự do biển cả không chỉ thể hiện trong quy chế pháp lý của biển cả và vùng mà còn thể hiện trong quy chế pháp lý của các vùng biển khác. Trong các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia, các vùng biển đặc thù vẫn tồn tại nguyên tắc này, nhưng mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế pháp lý các vùng biển tăng dần khi đi từ đất liền ra biển.

Lịch sử hình thành

Từ thế kỷ XV, khi các quốc gia mở rộng quyền lực của mình ra biển cả, sự đua tranh trong việc chiếm lĩnh thị phần khai thác, sử dụng biển trở nên ngày càng quyết liệt, lúc đó, người ta đã nhận ra rằng “biển cả không phải là nguồn tài nguyên vô tận mà biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng trong việc khai thác, sử dụng biển”.Từ đó đã hình thành hai quan điểm, hai học thuyết trái ngược nhau đó là: tự do biển cả (resnullius) và chủ quyền quốc gia (rescommunis).

Sau thế chiến thứ hai, quá trình pháp điển hóa luật quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quan điểm tự do biển cả cũng từ đó mà được các học giả, các tuyên bố đơn phương của các quốc gia và thực tiễn khẳng định và phát triển: Tại phiên họp thứ 22 của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào 17/08/1962, Arvid Pardo Đại sứ Malte đã đưa ra tư tưởng coi vùng đáy đại dương nằm ngoài vùng tài phán quốc gia là di sản chung của nhân loại; Nghị quyết 2479 ( XXV) ngày 17/12/1970 có nội dung tuyên bố về các nguyên tắc quản lý đáy biển và đại dương cũng như các lòng đất của chúng nằm ngoài ranh giới quyền tài phán quốc gia; Phán quyết của Tòa án pháp lý quốc tế: Nguyên tắc tự do thông thương hàng hải và nghĩa vụ của mọi quốc gia không được sử dụng lãnh thổ của mình nhằm mục đích chống lại quyền của các quốc gia khác ( Vụ eo biển Corfou ngày 09/04/1949 giữa Anh – Albani); Hội nghị pháp điển hóa lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật biển năm 1958 tại Geneve đã cho ra đời hai công ước: Công ước về biển cả ( hiệu lực từ ngày 30/09/1962) với 52 quốc gia phê chuẩn và Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật biển ( hiệu lực từ ngày 02/03/1966) với 36 quốc gia phê chuẩn; Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về luật biển được triệu tập tại New York với nhiều vòng đàm phán, từ năm 1973 đến năm 1982. Ngày 10/12/1982, tại Montego Bay, thủ phủ của Jamaica, đại diện có thẩm quyền của 117 quốc gia, Hội đồng của Liên hợp quốc về Nammibia và các đảo Cuc đã ký chính thức công bố Công ước luật biển 1982. Công ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Tính đến thời điểm hiện nay thì đã có 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu phê chuẩn công ước.

Biển cả, theo Điều 86 – Công ước luật biển 1982 là :“tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo”Trong công ước thì nguyên tắc tự do biển cả đã được thừa nhận như một nguyên tắc cơ bản nhất của luật biển quốc tế .

Nội dung của nguyên tắc tự do biển cả

Do đặc trưng không thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào, quy chế pháp lý của biển cả là quy chế tự do, hiểu theo hai khía cạnh pháp lý cơ bản: Thừa nhận sự ngang nhau về quyền và lợi ích của mọi quốc gia trên biển cả; Không có sự phân biệt đối xử dựa trên vị trí và hoàn cảnh địa lý của mọi quốc gia khi tham gia sử dụng và khai thác biển cả.

Bản chất pháp lý này của biển cả được thể hiện và đảm bảo bằng nội dung của nguyên tắc tự do biển cả : Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển. Nguyên tắc tự do biển cả không cho phép bất cứ quốc gia nào có thể áp đặt một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc chủ quyền của mình. Điều đó có nghĩa là trong biển cả tất cả các quốc gia đều được hưởng các quyền tự do được quy định trong luật quốc tế. Song, mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do của mình phải tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác.

Theo quy định tại Điều 87- Công ước luật biển 1982, những quyền tự do trên biển xuất phát từ nguyên tắc tự do biển cả bao gồm: (1) Tự do hàng hải: nội dung chủ yếu của quyền này liên quan đến tự do đi lại trên biển cả và thẩm quyền tài phán đối với tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả. Tàu thuyền một nước nhất định không phải chịu sự tài phán của một quốc gia khác, trừ quốc gia mà tàu mang quốc tịch, khi hoạt động trong vùng biển cả. (2) Tự do đánh bắt hải sản các quốc gia có quyền tự do đánh bắt tài nguyên sinh vật biển là quyền tự do không có bất kỳ một hạn chế nào. Tàu thuyền và công dân của mỗi quốc gia có thể sử dụng mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên của biển. Trên khu vực biển cả có thể đánh bắt hải sản tùy theo khả năng của con người, vào bất cứ thời điểm nào mà họ muốn và với bất kỳ phương tiện đánh bắt nào. Tuy nhiên, trong công ước cũng quy định về một vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven bờ với chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở, trong vùng này các quốc gia được tự do đánh bắt hải sản. Vùng đặc quyền kinh tế chiếm khoảng 40% diện tích biển, đây là những vùng giàu hải sản nhất, chiếm 90% tổng sản lượng đánh bắt trên thế giới.Như vậy, quyền tự do đánh bắt hải sản không được áp dụng trên một vùng biển rất rộng lớn, nguyên tắc này hiện nay ít có ý nghĩa thực tiễn. (3) Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm: quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm được vận dụng chủ yếu từ sau thế chiến thứ hai. Quyền này được hiểu rộng hơn, là bao gồm cả việc bảo vệ và nghiêm cấm phá hoại dây cáp và ống dẫn ngầm được đặt dưới biển. Quốc gia đặt dây cáp và ống dẫn ngầm có nghĩa vụ phải đặc biệt quan tâm đến tình trạng của chúng đã được xây dựng ở dưới đáy biển, không được gây cản trở cho quá trình sửa chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm hiện có. (4) Tự do hàng không: Đây là quyền tự do được bổ sung tiếp theo trong quá trình phát triển Luật biển quốc tế, đồng thời được thừa nhận là nguyên tắc chuyên biệt của luật hàng không quốc tế. Theo nguyên tắc này, trong vùng trời quốc tế, các phương tiện bay của tất cả các quốc gia đều có quyền tự do hàng không. Đồng thời, khi hoạt động ở vùng trời quốc tế, phương tiện bay chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia đăng tịch phương tiện bay, phát sinh từ cơ sở pháp lý của nguyên tắc thẩm quyền phương tiện bay. Đây là thẩm quyền riêng biệt. Tuy vậy, quyền tự do hàng không cũng có những giới hạn nhất định, đó là trong thời gian bay trong không phận quốc tế, các phương tiện bay phải chấp hành và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định, các yêu cầu về an ninh hàng không được ghi nhận trong điều ước quốc tế về hàng không cũng như các văn bản do tổ chức hàng không quốc tế ban hành. Tất cả các quốc gia phải áp dụng các biện pháp an ninh an toàn hàng không cho các phương tiện bay của mình, tuân thủ nghiêm túc các quy định của luật hàng không quốc tế. (5) Tự do nghiên cứu khoa học biển. (6) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép.

Tác động của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước luật biển 1982.

Nguyên tắc tự do biển cả không chỉ thể hiện trong quy chế pháp lý của biển cả và vùng mà còn thể hiện trong quy chế pháp lý của các vùng biển khác. Trong các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia, các vùng biển đặc thù vẫn tồn tại nguyên tắc này, nhưng mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế pháp lý các vùng biển tăng dần khi đi từ đất liền ra biển. Điều này thể hiện sự dung hòa của nguyên tắc tự do biển cả với nguyên tắc đất thống trị biển.

Biển cả như đã nêu trên là tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với biển cả thể hiện ở các nội dung sau:

(1) Quyền tự do hàng hải: Nội dung của quyền tự do hàng hải bao gồm các quyền liên quan đến việc tự do đi lại và thẩm quyền tài phán đối với tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả. Trước hết, đó là việc cho phép xác định quyền tự do đi lại của tất cả các loại tàu thuyền của quốc gia trên khu vực biển cả ở bất kỳ khu vực nào mà họ muốn. Các tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả có địa vị pháp lý ngang bằng nhau và chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia mà tàu mang cờ. Như vậy, khi hoạt động trên biển cả, tàu thuyền chỉ tuân theo “ luật của nước mà tàu treo cờ”, theo đó, các quyền kiểm soát tàu thuộc về tàu chiến và tàu cảnh sát của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả, mà trách nhiệm hành chính hay hình sự rơi vào bất kỳ thành viên nào thuộc thủy thủ đoàn, thì chỉ có thể yêu cầu truy cứu trách nhiệm pháp lý các đương sự trước cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc cơ quan của quốc gia mà đương sự có hành vi vi phạm là công dân. Tương xứng với thẩm quyền nên trên thì tất cả các quốc gia đều phải có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo hiểm đối với tàu thuyền của nước mình khi hoạt động trên biển cả, đồng thời phải gánh chịu mọi trách nhiệm do tàu thuyền của nước mình gây ra cho tàu thuyền của nước khác. Riêng đối với tàu quân sự và tàu Nhà nước dùng cho hoạt động phi thương mại khi hoạt động trên biển cả được hưởng quyền bất khả xâm phạm và quyền miễn trừ tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác, ngoài quốc gia mà tàu mang quốc kỳ. Đồng thời, trong vùng biển cả, bất kỳ quốc gia nào cũng phải có nghĩa vụ: ngăn ngừa và trừng trị tội cướp biển; ngăn ngừa và trừng trị tội buôn bán và vận chuyển nô lệ; đấu tranh chống các hành vi phát sóng bất hợp pháp; ngăn ngừa và trừng trị tội buôn bán ma túy và các chất kích thích; và có quyền truy đuổi. Đây chính là các ngoại lệ của nội dung tự do hàng hải. Ngoại lệ về quyền trấn áp phổ cập đối với tội cướp biển và ngoại lệ về quyền truy đuổi phát sinh từ hiệu lực của các quy phạm được công nhận chung của luật quốc tế. Đây là loại quy phạm có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia. Ngược lại, các ngoại lệ còn lại được quy định trong các điều ước quốc tế, chỉ có hiệu lực với các quốc gia thành viên điều ước. Mặt khác, các ngoại lệ trên không áp dụng với các tàu quân sự.

(2) Nguyên tắc tự do đánh bắt hải sản: Theo công ước luật biển, quyền tự do đánh bắt tài nguyên sinh vật biển là quyền tự do không có bất kỳ một hạn chế nào. Tàu thuyền và công dân của mỗi quốc gia có thể sử dụng mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên của biển. Trên khu vực biển cả có thể đánh bắt hải sản tùy theo khả năng của con người, vào bất cứ thời điểm nào mà họ muốn và với bất kỳ phương tiện đánh bắt nào.

(3) Quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Các quốc gia được quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm trong vùng biển cả. Quyền này được hiểu rộng hơn, là bao gồm cả việc bảo vệ và nghiêm cấm phá hoại dây cáp và ống dẫn ngầm được đặt dưới biển. Quốc gia đặt dây cáp và ống dẫn ngầm có nghĩa vụ phải đặc biệt quan tâm đến tình trạng của chúng đã được xây dựng ở dưới đáy biển, không được gây cản trở cho quá trình sửa chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm hiện có.

(4) Quyền tự do hàng không. Nội dung của nguyên tắc là trong vùng trời quốc tế, các phương tiện bay của tất cả các quốc gia đều có quyền tự do hàng không, khi hoạt động ở vùng trời quốc tế, phương tiện bay chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia đăng tịch phương tiện bay. Trong thời gian bay trong không phận quốc tế, các phương tiện bay phải chấp hành và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định, các yêu cầu về an ninh hàng không được ghi nhận trong điều ước quốc tế về hàng không cũng như các văn bản do tổ chức hàng không quốc tế ban hành. Tất cả các quốc gia phải áp dụng các biện pháp an ninh an toàn hàng không cho các phương tiện bay của mình, tuân thủ nghiêm túc các quy định của luật hàng không quốc tế.

(5) Quyền tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác và quyền tự do nghiên cứu khoa học. Theo quy định của nguyên tắc luật biển 1982, các quốc gia có biển cũng như không có biển đều có quyền tự do nghiên cứu khoa học, tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được luật quốc tế cho phép. Tuy nhiên, do việc vùng đặc quyền kinh tế được thành lập nên tồn tại chế độ cho phép quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc xây dựng thiết bị, đảo nhân tạo và nghiên cứu khoa học nên đã hạn chế phần lớn phạm vi không gian của hai quyền tự do bổ sung này.

RELATED ARTICLES

Tin mới