Từ ngày 1-3/2019, Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith thăm chính thức Việt Nam. Trong chuyến thăm, ông Thongloun Sisoulith đã hội kiến Tổng Bí thư, Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng, hội đàm Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Tại cuộc hội đàm với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith đánh giá cao những kết quả Việt Nam đạt được trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thời gian qua, nhất là về phát triển kinh tế – xã hội và mở rộng quan hệ đối ngoại, cho rằng đây là mô hình để Lào học hỏi, phấn đấu, đồng thời là nguồn động viên to lớn cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước của Lào. Thủ tướng Thongloun Sisoulith cũng cảm ơn Lãnh đạo và nhân dân Việt Nam đã quan tâm thăm hỏi và chia sẻ với nhân dân Lào trước những thiệt hại do các trận lũ lụt liên tiếp vừa qua gây ra tại các tỉnh Trung và Nam Lào.
Trao đổi về quan hệ hai nước, hai nhà lãnh đạo tái khẳng định tầm quan trọng của mối quan hệ vĩ đại, đoàn kết đặc biệt giữa hai nước Việt Nam và Lào, được gây dựng và vun đắp bởi các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước, là tài sản quý giá của hai dân tộc, đồng thời tỏ vui mừng trước những bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện của quan hệ song phương thời gian qua. Hai bên nhất trí tiếp tục đà trao đổi đoàn và tiếp xúc cấp cao, các cấp, các bộ, ngành, địa phương, qua các kênh Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội theo hướng tinh gọn, hiệu quả, thực chất; tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm về phát triển kinh tế-xã hội mỗi nước; thúc đẩy triển khai hiệu quả kết quả Kỳ họp lần thứ 41 Ủy ban liên Chính phủ; khuyến khích các bộ, ban, ngành, địa phương hai nước mở rộng quan hệ hợp tác trực tiếp, hỗ trợ nhau trong phát triển kinh tế-xã hội, giữ gìn an ninh, ổn định và trật tự. Hai Thủ tướng vui mừng trước những bước phát triển mạnh mẽ trong hợp tác quốc phòng, an ninh; cho đây là lĩnh vực then chốt nhằm giữ vững môi trường ổn định để phát triển ở mỗi nước; nhất trí tiếp tục phối hợp triển khai tốt các hiệp định, thỏa thuận về biên giới; ngăn chặn và xử lý kịp thời mọi hành động xâm phạm biên giới; phối hợp đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm xuyên biên giới; đẩy mạnh ký kết các thỏa thuận trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hai bên nhất trí sớm tổ chức Hội nghị tổng kết, đánh giá hiệu quả việc thực hiện mô hình kiểm tra “một cửa, một lần dừng” tại cặp cửa khẩu quốc tế Lao Bảo (Việt Nam) – Đen Sạ Vẳn (Lào); đồng thời phối hợp tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện Thỏa thuận về việc giải quyết vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước trong năm 2019; đánh giá cao các tiến triển tích cực trong hợp tác thương mại giữa hai nước; nhất trí tiếp tục thúc đẩy các biện pháp xúc tiến thương mại nhằm đưa kim ngạch hai chiều tăng trưởng ổn định từ 10%-15%/năm như đã đề ra; thực hiện hiệu quả các thỏa thuận về thương mại; sớm ký Bản ghi nhớ về phát triển và kết nối hạ tầng thương mại biên giới; tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cơ chế ưu đãi thuế, thương mại; nâng cao hơn nữa tính bổ trợ giữa hai nền kinh tế. Hai bên nhất trí triển khai các biện pháp hiệu quả để đảm bảo tiến độ, chất lượng của các dự án đầu tư của Việt Nam tại Lào, có chính sách hỗ trợ thiết thực trên tinh thần quan hệ đặc biệt giữa hai nước đối với doanh nghiệp; tiếp tục tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa Lãnh đạo Chính phủ Lào và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động kinh doanh, đầu tư tại Lào; nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác giáo dục-đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là đào tạo cán bộ chủ chốt, cán bộ nguồn, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đưa các nội dung công trình lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào vào giảng dạy tại các trường học của hai nước; song song với tăng cường hợp tác văn hóa, giao lưu nhân dân, thúc đẩy kết nối sản phẩm du lịch; thực hiện tốt Hiệp định hợp tác lao động. Thủ tướng Chính phủ Lào cam kết tiếp tục tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục và giảm chi phí liên quan tới việc xin cấp phép cho lao động Việt Nam.
Liên quan vấn đề Biển Đông, hai bên khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, thượng tôn pháp luật, an ninh, bảo đảm an toàn, tự do hàng hải và hàng không, giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS); tái khẳng định các lập trường nguyên tắc của ASEAN về vấn đề Biển Đông nêu trong các Tuyên bố gần đây của ASEAN, nhất là Tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 52 (AMM 52) tại Băng-cốc tháng 7/2019, theo đó, các bên nhất trí tăng cường tin cậy lẫn nhau và lòng tin, tự kiềm chế và tránh các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không quân sự hóa, thực hiện đầy đủ và nghiêm túc Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và phấn đấu sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982. Đáng chú ý, hai bên cũng đã ra “Tuyên bố chung giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào về tăng cường quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào trong tình hình mới”. Trong đó nhấn mạnh việc duy trì hòa bình, ổn định, thượng tôn pháp luật, an ninh, bảo đảm an toàn, tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông, giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Được biết, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông liên quan trực tiếp đến lợi ích và an ninh quốc gia của các nước ASEAN. Tuy nhiên, trong nội bộ ASEAN hiện vẫn tồn tại mâu thuẫn, bất đồng về lập trường chung trong cách xử lý vấn đề này. Lào là một trong số ít nước ASEAN ủng hộ lập trường phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, để đổi lấy lợi ích trước mắt. Theo đó, chính sách của Lào về vấn đề Biển Động dựa trên một số trụ cột sao:
Trước tiên, Lào chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp. Cùng với tình hình Biển Đông liên tục nóng lên, nhất là các nước xung quanh Biển Đông từng bước nỗ lực tăng cường sức mạnh trang thiết bị quân sự và các nước bên ngoài khu vực không ngừng tăng cường mức độ can thiệp quân sự, xu thế quân sự hóa của khu vực Biển Đông ngày càng gay gắt, chỉ số rủi ro xảy ra va chạm ngày càng tăng lên. Lào chủ trương các nước liên quan vấn đề Biển Đông dựa vào quy định của luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, yêu cầu các bên giữ sự kiềm chế cần thiết, tránh thực hiện bất kỳ hành động nào khiến cho tình hình căng thẳng, phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để đạt được mục tiêu chiến lược của nước mình.
Hai là thực hiện chính sách trung lập tương đối thận trọng. Đối với Lào, Trung Quốc là đối tác chiến lược của nước này, các nước tuyên bố chủ quyền Biển Đông ở Đông Nam Á cùng thuộc tổ chức ASEAN, việc xác định rõ đứng về bên nào là rất khó khăn và có sự ràng buộc lợi ích trên nhiều phương diện. Vì vậy, Lào đã áp dụng lập trường không lựa chọn đứng về bên nào trong vấn đề Biển Đông, thực hiện chính sách trung lập thận trọng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, để đạt được mục tiêu thu hút ngồn vốn và viện trợ từ Trung Quốc, Lào đã thay đổi gần như toàn bộ chủ trương, chính sách trong vấn đề Biển Đông, chính thức chấm dứt quan điểm trung lập. Hiện Lào thực thi chính sách ủng hộ và nghe theo mọi xắp xếp của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Điều này được thể hiện trong hàng loạt hội nghị cấp cao ASEAN, Đông Á… Lào đã có các tuyên bố, hành động cụ thể ủng hộ Trung Quốc khiến nội bộ ASEAN mâu thuẫn, bất đồng trong việc thống nhất lập trường để giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc. Ngoài ra, Lào cũng ngầm nghe theo Trung Quốc khi kiên trì quan điểm ASEAN không phải một bên của tranh chấp Biển Đông, hy vọng ASEAN về tổng thể có thể kiên trì không lựa chọn đứng về bên nào, không tham gia tranh chấp giữa các nước liên quan, để “bảo vệ sự đoàn kết của ASEAN” và quan hệ tổng thể giữa tổ chức này với Trung Quốc.
Ba là phản đối đa phương hóa và quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông. Lào cho rằng vấn đề Biển Đông là tranh chấp song phương giữa một số nước Đông Nam Á và giữa Trung Quốc với một số nước Đông Nam Á, nhưng các nước như Philippines thúc đẩy một cách tích cực ASEAN hóa, đa phương hóa và quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông. Các nước không tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông trong ASEAN như Lào giữ ý kiến khác về vấn đề này, cho rằng điều này không liên quan đến lợi ích của mình, không muốn can dự vào đó. Tháng 9/2011, hội nghị chuyên gia về luật biển của ASEAN do Philippines khởi xướng được tổ chức tại Manila, với mục đích thực hiện phương án giải quyết vấn đề Biển Đông mà Philippines đưa ra và lấy sức mạnh khu vực để cùng cân bằng Trung Quốc, nhưng Lào không cử đại diện tham gia. Năm 2012, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN vì sự bất đồng giữa các nước thành viên trong vấn đề Biển Đông mà không đạt được tuyên bố chung, đây là lần đầu tiên trong 45 năm thành lập của tổ chức này không ra được tuyên bố chung. Các nước như Lào… kiên trì vấn đề Biển Đông là vấn đề song phương, từ chối chủ trương của các nước như Philippines, Việt Nam… đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự của ASEAN, cho rằng ASEAN không nên can dự vào tranh chấp Biển Đông. Ngoài ra, các nước Philippines, Việt Nam… không ngừng thúc đẩy các nước như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ can dự vào vấn đề Biển Đông, tìm cách thông qua Mỹ để kiềm chế ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc. Lào cũng không tán thành nước lớn bên ngoài can dự vào tranh chấp Biển Đông, lo ngại Biển Đông trở thành nơi đọ sức của xung đột nước lớn và ảnh hưởng đến ổn định khu vực Đông Nam Á và tiến trình nhất thể hóa ASEAN. Tháng 1/2016, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đến thăm Lào để tìm cách thuyết phục nước này gia nhập phe gây sức ép với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, nhưng không đạt được hiệu quả. Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida hai lần đến thăm Lào vào tháng 5 và tháng 7/2016, thậm chí lấy viện trợ quy mô lớn đổi lại Lào ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông. Trung Quốc giữ lập trường phản đối mạnh mẽ đối với việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông. Tháng 7/2016, khi gặp gỡ Thủ tướng Lý Khắc Cường, Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith nêu rõ phía Lào ủng hộ lập trường Biển Đông của Trung Quốc, đồng thời hy vọng cùng duy trì hòa bình, ổn định của khu vực Biển Đông. Đây cũng là phản ứng rõ ràng của Chính phủ Lào đối với các nước trong và ngoài khu vực tìm cách quốc tế hóa và đa phương hóa vấn đề Biển Đông.
Bốn là tích cực chủ trương giải quyết tranh chấp bằng đàm phán song phương. Trong tranh chấp Biển Đông, Lào quyết ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong việc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương giữa từng nước với Bắc Kinh, chủ trương tranh chấp Biển Đông là vấn đề của các bên có liên quan, không phải là vấn đề của toàn ASEAN với Trung Quốc. Năm 2016, Chính phủ Trung Quốc đưa ra “tư duy kép” – chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển do các nước liên quan hiệp thương giải quyết, hòa bình và ổn định của Biển Đông do Trung Quốc và ASEAN cùng duy trì. Điều này nhận được sự ủng hộ của Lào, Bộ trưởng Ngoại giao Lào Saleumxay Kommasith từng mạnh miệng tuyên bố rằng tranh chấp Biển Đông phải do các nước liên quan trực tiếp dựa theo quy định của điều 4 trong DOC thông qua bàn bạc và đàm phán hữu nghị để giải quyết. Trong quá trình trao đổi qua lại với các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông trong ASEAN, Lào nhiều lần nhấn mạnh vấn đề Biển Đông phải thông qua đàm phán song phương để giải quyết.
Có thể nói chính sách Biển Đông của Lào tập trung thể hiện “nhận thức chung 4 điểm” về vấn đề Biển Đông mà Trung Quốc đạt được với một số nước ASEAN như Campuchia và Brunei, các bên cho rằng tranh chấp tồn tại trên một số đảo, đá ở quần đảo Trường Sa không phải là vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN, không nên ảnh hưởng quan hệ Trung Quốc-ASEAN; cho rằng phải tôn trọng quyền lợi các nước dựa theo luật pháp quốc tế để tự lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, không tán thành biện pháp đơn phương cho rằng phải dựa theo quy định của điều 4 trong DOC, kiên trì các nước liên quan thông qua đối thoại hiệp thương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ và quyền lợi biển; cho rằng Trung Quốc và ASEAN có thể thông qua hợp tác để cùng bảo vệ tốt hòa bình ổn định của Biển Đông, các nước bên ngoài khu vực nên phát huy vai trò mang tính xây dựng, chứ không phải là ngược lại. Hành động này của Lào không chỉ đi ngược lại lợi ích chung của ASEAN mà còn làm gia tăng mâu thuẫn, bất đồng trong ASEAN, khiến ASEAN ngày càng suy yếu và bị hạn chế trước Trung Quốc.
Tác động, ảnh hưởng của chính sách Biển Đông của Lào chủ yếu được thể hiện ở những phương diện sau: Một là không có lợi cho sự ổn định của tình hình khu vực Biển Đông. Thái độ của Lào trong vấn đề Biển Đông về tổng thể ngả theo Trung Quốc, không phù hợp với các nguyên tắc căn bản của quan hệ quốc tế. Những năm gần đây, Trung Quốc liên tục gia tăng các hoạt động phi pháp ở Biển Đông, tiến hành cải tạo phi pháp nhiều đảo, đá ở Trường Sa, tiến hành quân sự trên Biển Đông, phá hủy môi trường sinh thái trong khu vực, không thực thi theo phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016)… đã làm cho môi trường xung quanh Biển Đông xấu đi, làm giảm mức độ giải quyết hòa bình các tranh chấp, làm gay gắt thêm khó khăn an ninh của khu vực. Việc Lào tích cực chủ trương ủng hộ Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp Biển Đông đã giáng một đòn mạnh mẽ vào đoàn kết trong nội bộ ASEAN, vào công luận và luật pháp quốc tế. Sự thực chứng minh vấn đề Biển Đông cần phải giải quyết qua các cơ chế luật pháp quốc tế, đàm phán đa phương giữa các bên liên quan tranh chấp, giữa các bên có lợi ích, an ninh ở Biển Đông với Trung Quốc. Việc giải quyết thông qua đàm phán song phương trực tiếp với nước liên quan là cách làm thiển cận, câu giờ của Trung Quốc nhằm tạo điều kiện có lợi cho Bắc Kinh để gây sức ép, buộc các nước phải nghe theo Trung Quốc. Theo đó, biện pháp và đối sách của Lào là nhân tố tiêu cực, phá rối trong tranh chấp Biển Đông, khiến tình hình tranh chấp thêm căng thẳng và không có lợi cho hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như thống nhất, đoàn kết trong ASEAN.
Hai là không có lợi cho sự phát triển của quan hệ ASEAN-Trung Quốc. Tranh chấp Biển Đông là tranh chấp giữa Trung Quốc với ASEAN, nên việc Lào kiên trì song phương hóa tranh chấp Biển Đông, phản đối coi vấn đề này là vấn đề của toàn ASEAN với Trung Quốc, ủng hộ tích cực “tư duy kép” của Trung Quốc khiến mâu thuẫn, bất đồng trong ASEAN gia tăng, gây ảnh hưởng đến đoàn kết trong nội bộ Khối, không có lợi cho việc thúc đẩy hợp tác quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc. Hiện Trung Quốc đã là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN, cùng với sự nâng cấp của Khu vực thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN, xây dựng cơ chế Lan Thương-Mekong và thực hiện xây dựng “Một vành đai, một con đường”, mối liên hệ giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng tăng lên, quan hệ ngày càng mật thiết. Trong tranh chấp Biển Đông, việc Lào và một số nước nghe theo Trung Quốc để đi ngược lại lợi ích của cộng đồng ASEAN chỉ khiến quan hệ ASEAN-Trung Quốc xấu thêm. Lào hiện đã trở thành công cụ để Trung Quốc chi phối, điều khiển chống đối lại chính các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Năm 2016, với tư cách là nước chủ tịch luân phiên của ASEAN, Lào tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEAN và hàng loạt hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Đông Á, Lào đã nghe theo Trung Quốc, khiến Hội nghị không thể ra được Tuyên bố chung, điều này làm mâu thuẫn, bất đồng giữa các nước ASEAN lên đỉnh điểm.
Ba là không có lợi cho việc thúc đẩy xây dựng Cộng đồng ASEAN. Cộng đồng ASEAN được tuyên bố thành lập vào ngày 31/12/2015 là mục tiêu quan trọng và chỗ dựa mang tính giai đoạn của nhất thể hóa ASEAN, trong đó có cộng đồng an ninh, cộng đồng kinh tế, cộng đồng văn hóa xã hội. Nhưng việc Lào nghe theo Trung Quốc khiến việc vận hành Cồng đồng ASEAN gặp nhiều khó khăn.