Để ngụy biện cho hành vi phi pháp trên Biển Đông, cũng như củng cố yêu sách “chủ quyền” và từng bước tiến tới khống chế và kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc đã đẩy mạnh tuyên truyền về vấn đề biển đảo.
Trung Quốc sử dụng tuyên truyền như một mặt trận, thậm chí một “phương thức đấu tranh”, nhằm tạo ra những lợi thế về nhận thức trong dư luận, hỗ trợ cho các mặt trận thực địa, quân sự, pháp lý và ngoại giao của nước này trên Biển Đông.
Hệ thống tuyên truyền của Trung Quốc
Để triển khai chính sách nhất quán, Trung Quốc thiết lập một bộ máy tuyên truyền đồ sộ. Quy trình quản lý và triển khai cho thấy sự tập trung và thống nhất với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền. Hạt nhân của bộ máy tuyên truyền ở Trung Quốc là Ban Tuyên truyền trung ương Đảng (PD-CCP) nằm dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc. Đây được coi là cơ quan hạt nhân chịu trách nhiệm xây dựng các chương trình tuyên truyền cả trong nước và ra nước ngoài của Trung Quốc.
Các Trưởng, Phó Ban của PD-CCP đều là những thành viên kiêm nhiệm, vừa đảm nhiệm vị trí lãnh đạo trong PD-CCP là kênh Đảng, đồng thời vừa đảm nhiệm các vị trí như Bộ trưởng, Thứ trưởng của các bộ ngành liên quan. Điều này tạo ra cơ chế kép “Đảng – Chính quyền” trong quá trình triển khai chính sách tuyên truyền của Trung Quốc.
Xét về tuyên truyền đối ngoại, Ban Tin tức Quốc vụ viện (SCIO) với tên gọi khác là Ban tuyên truyền đối ngoại TW Đảng thuộc Quốc vụ viện nhưng nằm dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên truyền TW Đảng là cơ quan đầu não trong giám sát thực thi và chỉ đạo hoạt động tuyên truyền đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài ra, những chủ thể quan trọng trong bộ máy tuyên truyền đối ngoại của Trung Quốc còn có Tổng cục Xuất bản Tin tức Trung Quốc, Văn phòng Thông tin Internet Quốc gia, Tổng cục Phát thanh – Truyền hình Quốc gia. Các cơ quan cấp Bộ phối hợp về mặt nội dung còn có Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Bộ Giáo dục, Bộ Công an và Bộ An ninh Quốc gia, Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin,…
Về cơ chế tuyên truyền, để tạo được sự thống nhất trong tuyên truyền từ trung ương xuống địa phương và từ chính phủ đến các bộ ban ngành, hay nói cách khác là cơ chế kép trong tuyên truyền, từ năm 2004, Trung Quốc thực thi cơ chế “ba tầng tin tức” và cơ chế “người phát ngôn”. Cơ chế “ba tầng tin tức” là để chỉ tầng tin tức từ Quốc vụ viện, tầng tin tức từ các bộ ban ngành và tầng tin tức chính quyền địa phương; tương tự như vậy, các bộ ban ngành và các tỉnh thành của Trung Quốc đều thiết lập cơ chế “người phát ngôn” để thống nhất tiếng nói của Đảng. Ban Tin tức Quốc vụ viện là cơ quan hạt nhân nắm giữ vai trò điều phối cơ chế 3 tầng và cơ chế người phát ngôn này. Chính nhờ cơ chế này mà Trung Quốc có sự thống nhất trong tuyên truyền từ Đảng cho đến chính phủ và đến các bộ ban ngành và địa phương, rồi ra đến các cơ quan nghiên cứu, truyền thông, báo chí.
Hiện nay, cách thức tuyên truyền về Biển Đông của Trung Quốc rất đa dạng, nhiều cấp độ hướng đến nhiều tầng lớp và bao trùm lên quảng đại người dân trong nước và cộng đồng quốc tế. Để làm được điều đó, Trung Quốc rất kiên trì và nhất quán trên mặt trận thông tin, sẵn sàng đầu tư lớn để kiểm soát các nền tảng truyền thông đại chúng. Về cách làm, Trung Quốc sử dụng nhiều nguồn phát cả chính thức và không chính thức, cả Trung Quốc và quốc tế, thông qua nhiều phương tiện, công cụ khác nhau để kể “câu chuyện của Trung Quốc” cho nhiều đối tượng khác nhau. Có thể kể đến các kênh tuyên truyền sau đây:
Báo, tạp chí nghiên cứu, ấn phẩm in hiện nay vẫn là một trong những kênh tuyên truyền truyền thống phổ biến nhất của Trung Quốc. Theo thống kê sơ bộ trên trang mạng của Thư viện Quốc gia Trung Quốc (NLC), tính đến nay, Trung Quốc đang lưu trữ khoảng hơn 125.188 bài báo viết và báo cáo về Biển Đông; khoảng hơn 1.000 cuốn sách viết về Biển Đông bằng tiếng Trung và khoảng 250 đầu sách bằng tiếng Anh về Biển Đông đã được xuất bản.
Số bài nghiên cứu của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông được đăng trên tạp chí cũng tăng dần qua các năm. Đặc biệt là năm 2016 trong bối cảnh vụ kiện trên Biển Đông mà phần thua thuộc về Trung Quốc, có tới 1.751 bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí được cho là “khoa học” khác nhau. Đáng chú ý, Trung Quốc bỏ nhiều tiền để thuê học giả viết bài, mua cổ phần, tiến tới sở hữu các tờ báo có tiếng, mua chuyên mục trên các báo có uy tín… để truyền bá các thông tin mà Trung Quốc mong muốn.
Phát thanh, truyền hình vẫn là một kênh được đầu tư lớn. Hiện nay ở Trung Quốc có 187 đài truyền hình và 2.269 đài phát thanh và truyền hình bao phủ rộng khắp 98,88% cả nước Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư lớn đến thiết lập hệ thống truyền hình quốc tế kết hợp TV và radio thành kênh hợp nhất. Đài Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) là đài phát thanh truyền hình phổ biến nhất hiện tuyên truyền về Biển Đông chủ yếu trên kênh CCTV4 – kênh chuyên phát sóng những chương trình truyền hình quốc tế. Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc (CRI) là kênh phát thanh tuyên truyền đối ngoại quan trọng nhất của Trung Quốc cũng được phát thanh vấn đề Biển Đông trên hai kênh FM 101 và FM 102.
Kênh internet, gồm các websites, mạng xã hội như Weibo, Weixin,… cũng trở thành những công cụ tuyên truyền hết sức nhanh chóng và tác động sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân của Trung Quốc. Theo thống kê, hiện nay ở Trung Quốc người dùng di động truy cập tin tức qua Weixin chiếm 35% và qua Weibo chiếm đến 20%. Do đó, việc lan toả tin tức Biển Đông qua những trang mạng xã hội này trở nên phổ biến, không những thế, những ứng dụng mạng xã hội này ở Trung Quốc có quy trình kiểm soát thông tin bên ngoài chặt chẽ do đó tránh được những luồng tin từ nước ngoài lan toả ở Trung Quốc cũng như có sự thống nhất trong luồng thông tin tuyên truyền từ trên xuống dưới ở Trung Quốc.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tuyên truyền về yêu sách Biển Đông thông qua nhiều dạng sản phẩm, hoạt động và sự kiện như thông qua các hội thảo quốc tế, hội chợ du lịch, sự kiện thể thao, thông qua các triển lãm, cuộc thi, các chuyến thăm quan, các tác phẩm phim ảnh, nghệ thuật… Tại các hội thảo trong nước và quốc tế, Trung Quốc vẫn tận dụng vai trò chủ nhà, vai trò nhà tài trợ để định hình chương trình nghị sự, nắm vai trò dẫn dắt để tuyên truyền về Biển Đông theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Các phim ảnh của Trung Quốc như Điệp vụ Biển Đỏ, Abominable là những minh chứng rõ nhất về việc lồng ghép ý đồ chính trị vào các sản phẩm đại chúng.
Nội dung tuyên truyền
Về mặt đối ngoại, quan chức Trung Quốc (Chính phủ, Ngoại giao, Quốc phòng…) từng đưa ra nhiều tuyên bố tuyên truyền, xuyên tạc cho rằng “Trung Quốc sẽ kiên trì bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông; nhấn mạnh Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông; đồng thời kêu gọi các nước tôn trọng chủ quyền của Bắc Kinh và giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương”. Phát biểu tại Đại học Quốc gia Singapore, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng ngang nhiên tuyên bố rằng “những hòn đảo ở Biển Đông là thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ thời cổ xưa”, nhấn mạnh Bắc Kinh luôn luôn ủng hộ giải quyết những tranh chấp này thông qua đối thoại hòa bình, cam kết không “bắt nạt” những nước láng giềng yếu hơn, khẳng định chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông là duy trì hòa bình và ổn định, đồng thời cho rằng, môi trường ổn định cho phát triển là “lợi ích chung của tất cả các quốc gia ASEAN”. Trong khi đó, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao Trung Quốc liên tục khẳng định Bắc Kinh có “chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông”, tất cả các hoạt động (xây dựng, cải tạo đảo, đá phi pháp, mở tuyến du lịch, triển khai vũ khí sát thương…) đều là công việc nội bộ của Trung Quốc và đây chỉ là các hoạt động phục vụ mục đích dân sự.
Về mặt pháp lý, Trung Quốc đẩy mạnh việc công bố, tuyên truyền các văn bản pháp quy quan trọng về quản lý, quy hoạch biển, cụ thể: Thứ nhất, Trung Quốc công bố “Cương yếu quy hoạch đất đai toàn quốc Trung Quốc năm 2016, tầm nhìn năm 2030”; Luật an toàn giao thông biển sửa đổi; Đại cương “Phương án sử dụng và khai thác hải đảo không người cư trú”; Quốc vụ viện Trung Quốc cũng phê chuẩn “Phương án giám sát Hải dương”; Trung Quốc lần đầu công bố Sách Trắng về “Chính sách hợp tác an ninh châu Á – Thái Bình Dương”, trong đó có nội dung xuyên tạc cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) và vùng nước phụ cận”. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc cũng trao Cục Hải dương Quốc gia quyền giám sát quản lý các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, kiểm soát, giám sát tàu thuyền và thiết bị, hoạt động hàng hải của nước ngoài trong vùng biển “thuộc quyền tài phán” của Trung Quốc… đối với các địa phương ven biển và cơ quan thực thi luật biển.
Thứ hai, các địa phương ven biển của Trung Quốc đưa ra các quy định, kế hoạch quản lý, giám sát, phát triển về sử dụng, khai thác, kiểm tra giám sát và bảo vệ môi trường biển. Tỉnh Hải Nam Trung Quốc đã công bố “Quy hoạch phát triển du lịch tổng thể năm 2016-2020”, khẳng định sẽ nâng cấp các sản phẩm du lịch dưới nhiều hình thức nhằm kết nối (trái phép) Hải Nam và Hoàng Sa; cái gọi là “Thành phố Tam Sa” thông qua phương án “Quy hoạch thực thi đồng bộ dịch vụ cảng Phú Lâm”; kế hoạch phát triển các nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển theo Quy hoạch 5 năm lần thứ 13; Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm (Bộ Nông nghiệp nông thôn Trung Quốc thông báo tạm ngừng đánh cá có thời hạn từ 12h ngày 1/5/2018 đến 12h ngày 16/8/2018 ở Biển Đông, vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc đến đường giao giới vùng biển Phúc Kiến – Quảng Đông kể cả Vịnh Bắc Bộ và vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.)… nhằm phối hợp với chiến lược tổng thể của Chính phủ Trung Quốc, nhất là việc triển khai phát triển du lịch ở Biển Đông, để từng bước hợp thức hóa cơ sở hạ tầng tại khu vực chiếm đóng phi pháp.
Về kinh tế, khoa học kỹ thuật, Trung Quốc đẩy mạnh tuyên truyền hoạt động củng cố kiểm soát trên thực địa bằng nhiều biện pháp trong đó tập trung vào các hoạt động dân sự có hàm lượng công nghệ cao; tìm cách biện minh, giải thích các hành động trên là nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế biển, kết nối thương mại, cung cấp dịch vụ công cho hoạt động hàng hải ở khu vực; chủ động lồng ghép vấn đề hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật biển với các chiến lược lớn “Vành đai, con đường” nhằm xoa dịu căng thẳng và ngăn chặn các nước bên ngoài tìm cách can thiệp vào tranh chấp Biển Đông. Trung Quốc cũng lợi dụng việc phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật để gia tăng ảnh hưởng đối với các nước ASEAN, chia rẽ đoàn kết trong nội bộ ASEAN, ép buộc một số nước phải lệ thuộc và ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Về các hoạt động quân sự, Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về các thành tựu nghiên cứu, chế tạo trang thiết bị quân sự mới như hoàn thiện tàu sân bay nội địa đầu tiên; thử nghiệm các loại vũ khí chiến lược có tính răn đe cao như tên lửa Đông Phong 5C (DF-5C), Đông Phong 16 (DF-16), máy bay tiêm kích J-20…; hoạt động tập trận bắn đạn thật ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; triển khai (bất hợp pháp) tên lửa phòng không HQ-9B và tên lửa chống hạm YJ-12B trên 3 thực thể địa lý đã bị Trung Quốc bồi lấp trái phép thành đảo nhân tạo gồm đá Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Ngoài ra, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Quốc vụ viện Trung Quốc cũng thông qua phương tiện truyền thông giải thích, biện minh cho việc cải tạo phi pháp các thực thể ở Biển Đông thuộc “phạm vi chủ quyền” của Trung Quốc; khẳng định Bắc Kinh không tiến hành các hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông, các hoạt động tập trận là hoạt động thường kỳ và việc triển khai vũ khí chỉ là để bảo vệ công dân Trung Quốc, không nhằm vào bất kỳ nước nào. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần cho rằng việc Bắc Kinh xây dựng ở Trường Sa là nhằm cải thiện điều kiện làm việc và sinh sống của nhân viên trên đảo, đồng thời thực hiện tốt hơn các cam kết quốc tế; khẳng định việc triển khai tên lửa phòng không ở Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập là nhằm “phòng thủ lãnh thổ cần thiết”. Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc xác nhận Hải quân Trung Quốc tiến hành đợt tập trận bắn đạn thật kéo dài một tuần ở Biển Đông với sự tham gia của nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh, khẳng định đây là hoạt động “thường lệ”, “phù hợp với chính sách quân sự phòng thủ” của Bắc Kinh, “không đe dọa đến các nước khác”.
Về hoạt động trong lĩnh vực dân sự, Trung Quốc tuyên truyền về việc đang đẩy nhanh quy hoạch quản lý biển, hỗ trợ cung cấp dịch vụ công nhằm đảm bảo an toàn hàng hải trong khu vực, cụ thể: Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thiện việc đặt tên cho 255 cấu trúc ở Biển Đông, mở chi nhánh của Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) tại cái gọi là “thành phố Tam Sa”, thử nghiệm các chuyến bay dân sự, cho phép “Công ty vận tải tư nhân Hải Hiệp” đưa khách du lịch (đoàn viên thanh niên, sinh viên ra Hoàng Sa); tuyên truyền về việc hạ thủy hai tàu khảo sát khoa học hiện đại có khả năng hoạt động toàn cầu, đưa dữ liệu từ các trạm quan trắc trên các đảo, đá tranh chấp tại Trường Sa vào hệ thống dịch vụ dữ liệu; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng lớn về giao thông liên lạc, năng lượng, phủ sóng mạng di động, bệnh viện, rạp chiếu phim… ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Về việc xây dựng hình ảnh nước lớn có trách nhiệm, Trung Quốc đẩy mạnh tuyên truyền trên tất cả các phương diện về “quyết tâm, thiện chí và nỗ lực” trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, khẳng định Trung Quốc luôn tuân thủ các quy định pháp luật quốc tế. Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần tuyên bố “nhờ nỗ lực của Trung Quốc và ASEAN thời gian qua, tình hình Biển Đông đã ổn định”, nhấn mạnh rằng Bắc Kinh muốn duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị từng hùng hồn tuyên bố Trung Quốc và ASEAN đạt được khung COC là do tạo dựng được môi trường thuận lợi, loại bỏ sự cản trở từ các nước (ám chỉ sự can thiệp của Mỹ trong vấn đề Biển Đông).
Không những vậy, giới chức và truyền thông Trung Quốc cũng tăng cường chỉ trích các nước bên ngoài can thiệp vào tranh chấp Biển Đông. Sau khi các nước (Mỹ, Nhật Bản, Australia, Canada…) có các hoạt động, tuyên bố chỉ trích Trung Quốc quân sự hóa, cải tạo phi pháp, cản trở hoạt động tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông, Trung Quốc thường thông qua các kênh chính thống (Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Đại sứ quán Trung Quốc tại các nước…), kênh truyền thông (Tân Hoa xã, Nhân dân Nhật báo, CCTV…), các diễn đàn đa phương, hội thảo quốc tế (do Trung Quốc tổ chức) để chỉ trích các nước “tìm cách can thiệp vào vấn đề Biển Đông, gây chia rẽ quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASEAN”; khẳng định Biển Đông là vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN, yêu cầu các nước “tôn trọng nỗ lực của các nước trong khu vực nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông”, cho rằng nhiều nước đang tìm cách gây cản trở vấn đề Biển Đông dưới chiêu bài luật pháp quốc tế. Bộ Ngoại giao, Quốc phòng Trung Quốc đã nhiều lần lên tiếng chỉ trích, thậm chí là cảnh cáo các hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông, cho rằng các hoạt động của Mỹ là khiêu khích quân sự và chính trị nghiêm trọng, nhấn mạnh Trung Quốc sẽ sử dụng mọi biện pháp có thể để bảo vệ an ninh và “chủ quyền” quốc gia. Đáng chú ý, Thời báo Hoàn Cầu (nguyệt san của Nhân dân Nhật báo, 29/8/2017) từng có bài viết “cảnh báo” Việt Nam không nên vì tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông mà để ảnh hưởng đến hợp tác thương mại và trao đổi văn hóa với Trung Quốc; cho rằng hai nước không nên để thế lực bên ngoài can thiệp vào quan hệ song phương.
Ý đồ của Trung Quốc
Trong vấn đề Biển Đông, tuyên truyền của Trung Quốc đa phần là sai trái, cố tính tạo ra quan điểm sai nhưng “ăn sâu vào tiềm thức” của người dân về cái gọi là “chủ quyền không thể chối cãi” của Trung Quốc trên Biển Đông. Sau khi áp đặt quan điểm đó với nhân dân Trung Quốc, Trung Quốc lại lấy “cớ” cái gọi là “sự đồng thuận” để thúc đẩy những chính sách quyết đoán, hành động phi pháp trên Biển Đông. Trên hồ sơ Biển Đông, yêu sách hiện nay của Trung Quốc hết sức phi lý và phi pháp, trong khi đó, nước này lại áp dụng những biện pháp thiên về sức mạnh như xây dựng đảo, quân sự hóa, ngoại giao pháo hạm, chủ động gây hấn, ngang ngược triển khai thăm dò dầu khí trong vùng biển của quốc gia khác,… Do đó, dễ hiểu Trung Quốc phải dùng các kênh tuyên truyền để “lu loa” lớn tiếng lấn át sự phản đối của các nước khác và quốc tế.
Các hoạt động tuyên truyền của Trung Quốc vừa phục vụ mục đích chính trị vụ lợi đó là biện minh cho những yêu sách phí lý của mình; lại vừa truyền bá về hình ảnh một Trung Quốc “chính nghĩa, yêu hòa bình” và “hành xử như một nước lớn có trách nhiệm trong khu vực Biển Đông”.
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình Biển Đông trở nên phức tạp và ngày càng nhiều nước chỉ trích khiến hình ảnh Trung Quốc trở nên “bá quyền” trong mắt bạn bè quốc tế, Trung Quốc càng có nhu cầu khẳng định chủ quyền, định hướng dư luận và xây dựng hình ảnh nước lớn có trách nhiệm, có chính nghĩa. Các nội dung tuyên truyền của Trung Quốc là có chủ đích thường chỉ một chiều, không hướng đến tranh luận và thuyết phục mà chủ yếu thao túng tư duy và nhận thực bằng “nhồi nhét” quan điểm của Trung Quốc và sử dụng các kỹ thuật truyền thông nhằm thao túng dư luận. Trung Quốc không chỉ muốn các nước, dư luận, công chúng hiểu quan điểm, lập trường của mình mà còn muốn họ nghĩ theo cách nghĩ của Trung Quốc, hướng tới ủng hộ chính sách của nước này, hoặc chí ít là không phản đối.
Nhìn chung, ý đồ của Trung Quốc là tiến tới khống chế và kiểm soát Biển Đông mà không cần dùng tới chiến tranh. Trung Quốc vẫn muốn giữ hòa bình, ổn định để tập trung cho phát triển, đuổi kịp Mỹ. Để làm được điều đó, bên cạnh các sức ép quân sự, ngoại giao và trên thực địa, Trung Quốc phải ra sức “kể những câu chuyện tốt về Trung Quốc” nhằm định hướng dư luận, phổ biến những bằng chứng ngụy tạo và các lập luận phi lý, từ đó, xây dựng một hình ảnh Trung Quốc “trỗi dậy hòa bình” để lấp liếm đi những ý đồ “bá quyền”, “bá chủ” thực sự ở bên trong.