Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng các hoạt động khẳng định yêu sách “chủ quyền” ở Biển Đông theo “đường 9 đoạn” và ngày càng đẩy mạnh hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác, Malaysia (12/12) đã nộp đơn yêu cầu xác lập thềm lục địa mở rộng trên Biển Đông nhằm ngăn chặn hoạt động phi pháp của Bắc Kinh.
Ủy ban về giới hạn thềm lục địa (CLCS) cho biết, đây là bản đệ trình cho phần còn lại của thềm lục địa Malaysia nằm ngoài 200 hải lý ở phía Bắc Biển Đông. Trước đó, Malaysia và Việt Nam (06/05/2009) cũng đã cùng đệ trình về phần thềm lục địa của hai nước ở phía Nam Biển Đông. Theo Quy tắc về thủ tục của CLCS, sự kiện này sẽ được thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, cũng như các quốc gia đã ký kết UNCLOS. Yêu cầu nói trên của Malaysia sẽ được ghi vào chương trình nghị sự kỳ họp thứ 53 của Ủy ban tại New York từ ngày 06/7 – 21/8/2021. CLCS có chức năng đưa ra các khuyến nghị cho các quốc gia ven biển về thềm lục địa mở rộng, và tư vấn nếu có yêu cầu. Các ranh giới được thiết lập trên cơ sở những khuyến nghị này được chính thức công nhận.
Theo giới chuyên gia, việc Malaysia đệ trình đơn xác lập thềm lục địa mở rộng trên Biển Đông là hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu, quy định của luật pháp quốc tế đường đại, nhất là UNCLOS 1982. Vì theo quy định của UNCLOS, thềm lục địa của quốc gia ven biển là phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển. Trên thực tế, rìa ngoài của thềm lục địa ở các khu vực có khác nhau: Có nơi hẹp, không đến 200 hải lý; nhưng có nơi rộng đến hàng trăm hải lý. Điều 76 của UNCLOS 1982 quy định rất rõ ràng. Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lý (kể cả khi thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lý). Nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500m. Tuy nhiên, để mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lý thì quốc gia ven biển liên quan phải trình cho Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó; sau đó, Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc sẽ xem xét và ra khuyến nghị. Trong vùng thềm lục địa của mình, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên (Điều 77.1). Cần lưu ý rằng các quyền chủ quyền này của quốc gia ven biển trong thềm lục địa của quốc gia mình mang tính đặc quyền, nghĩa là không ai có quyền tiến hành các hoạt động thăm dò và khai thác tài nguyền thiên nhiên tại thềm lục địa nếu không có sự đồng ý, thoả thuận rõ ràng với quốc gia ven biển (Điều 77.2); quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa của quốc gia mình vì bất kỳ mục đích gì (Điều 81). Việc thực hiện quyền của các quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không được gây ảnh hưởng đến quyền tự do hàng hải và một số quyền tự do khác được Công ước quy định.
Trước đây, nhiều nước ven Biển Đông đã đưa ra những yêu cầu tương tự. Theo đó, Indonesia là nước đầu tiên đệ trình thông tin về ranh giới bên ngoài khu vực 200 hải lý từ thềm lục địa tại vùng tây bắc đảo Sumatra vào ngày 16/6/2008. Tuy nhiên, bước ngoặt là việc Việt Nam và Malaysia có đệ trình chung về ECS với một khu vực ở phía nam Biển Đông, đệ trình này được đưa ra trước thời hạn cuối cùng do UNCLOS và các thỏa thuận quốc tế tương tự xác lập là ngày 13/5/2009. Cùng thời điểm, Việt Nam cũng đệ trình đơn đăng ký từng phần về khu vực Đông Bắc Biển Đông tới CLCS. Các đệ trình đều bỏ qua khả năng mở rộng thềm lục địa dựa trên các thực thể đảo ở Trường Sa và Hoàng Sa.
Việc Malaysia đưa ra yêu cầu trên là một điểm nhấn mới trong chính sách biển đảo của nước này. Theo Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, thành viên Việt Nam của Ủy ban Luật pháp quốc tế thuộc Liên hợp quốc (ILC), hành động trên của Malaysia là nhằm thực hiện một số ý đồ chiến lược sau: Đầu tiên, lần đệ trình này mở rộng thềm lục địa được vẽ trong bản đồ của Cục Bản đồ và Đo lường Malaysia vẽ năm 1979 ở cả vùng phía nam và phía bắc trên Biển Đông của nước này. Diện tích này gần gấp đôi so với thềm lục địa yêu sách năm 1979 của Malaysia. Thứ hai, nó hoàn toàn cho thấy sự ủng hộ với phán quyết của tòa trọng tài năm 2016, xác định toàn bộ các thực thể trên quần đảo Trường Sa chỉ có lãnh hải 12 hải lý và không yêu sách với việc mở rộng vùng đặc quyền kinh tế cũng như thềm lục địa. Thú vị hơn, trang đầu tiên của đơn đăng ký từng phần này có ghi năm 2017. Có lẽ tài liệu này đã được chuẩn bị từ lâu trước khi được quyết định đệ trình. Thứ ba, lần đệ trình này phủ định gián tiếp yêu sách đường 9 đoạn vô lý của Trung Quốc, mặc dù Malaysia không phải là một bên tham gia vụ kiện Biển Đông của Philippines. Trong công hàm ngày 12/12/2019 phản đối đệ trình của Malaysia, Trung Quốc lặp lại yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa dựa trên các đảo (những hòn đảo mà trong khu vực mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền một cách vô lý) và quyền lịch sử trên Biển Đông. Thứ 4, đệ trình này ủng hộ việc áp dụng một cách tương tự phán quyết của tòa trọng tài với những thực thể trên quần đảo Hoàng Sa khi tuyên bố rằng “các chủ thể trong đơn đệ trình đăng ký từng phần không nằm trong khu vực có vùng đất hay tranh chấp về lãnh hải giữa Malaysia và bất cứ quốc gia ven biển nào”. Thứ 5, nó thúc đẩy các quốc gia có dính líu khác đàm phán với Malaysia về quy định phạm vi của những khu vực có thể chồng lấn. Đơn đệ trình thừa nhận rằng “có những khu vực có thể chồng lấn được phép dựa trên sự tôn trọng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý của khu vực theo chủ thể trong đơn đệ trình từng phần”. Theo đó, Philippines có thể cùng với Việt Nam và Malaysia cùng đệ trình 3 bên về thềm lục địa mở rộng vượt quá 200 hải lý trong tương lai. Thứ 6, đơn đệ trình được đưa ra trước khi kết thúc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), cho phép Malaysia tránh được những hạn chế (nếu có) khi COC hoàn thành. Nó cũng giúp Malaysia tìm kiếm những lợi thế trong đàm phán trên Biển Đông. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, lần đệ trình này cũng khuyến khích tới Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (CLCS) xem xét lại đơn đệ trình chung của Việt Nam và Malaysia khi nó bị Trung Quốc và Philippines phản đối – những lý do này đã được tòa trọng tài xóa bỏ năm 2016.