Saturday, May 4, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaMalaysia, Philippines và TQ liên tục đệ trình Công hàm lên Uỷ...

Malaysia, Philippines và TQ liên tục đệ trình Công hàm lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc

Nhằm tìm kiếm sự “ủng hộ” về mặt pháp lý đối với các yêu sách “chủ quyền” trên Biển Đông, một số nước trong khu vực liên tục đệ trình văn bản liên quan yêu sách “chủ quyền” lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, trong những yêu sách của những nước này, có nhiều vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam.

Đệ trình của Malaysia

Malaysia (12/12/2019) đã gửi một bản đệ trình lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc, theo đó, yêu cầu một phần thềm lục địa mở rộng của nước này trên biển Đông, dựa trên Điều 76 của Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS). Theo đó, đây là một phần đệ trình cho phần còn lại của thềm lục địa Malaysia vượt quá 200 hải lý ở phía bắc Biển Đông. Malaysia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đệ trình chung cho một phần của thềm lục địa mở rộng ở phần phía Nam của Biển Đông vào ngày 6 tháng 5 năm 2009. Theo Quy định của Ủy ban, đệ trình của Malaysia sẽ được gửi tới tất cả các thành viên của Liên hợp quốc, cũng như các quốc gia thành viên của Công ước để xem xét và thảo luận. Việc xem xét đệ trình một phần của Malaysia sẽ được đưa vào chương trình nghị sự của Ủy ban, được tổ chức tại New York từ ngày 6 tháng 7 đến ngày 21 tháng 8 năm 2021.

Trong khi đó, giới chuyên gia nhận định, việc đệ trình này là những toan tính của Malaysia. Theo đó, việc đệ trình cũng khuyến khích Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa xem xét lại đệ trình chung của Việt Nam-Malaysia năm 2009, vì căn cứ mà Trung Quốc và Philippines dựa vào để phản đối đệ trình đó đã bị Tòa trọng tài 2016 bác bỏ. Chính xác hơn, đường chín đoạn đã bị tuyên bố là không có giá trị pháp lý và các thực thể trong quần đảo Trường Sa không đủ điều kiện hưởng quy chế đảo. Nói cách khác, đệ trình của Malaysia đặt ra câu hỏi về mối quan hệ giữa hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và các phán quyết pháp lý.

Philippines bày tỏ quan điểm

Phái đoàn thường trực của Philippines tại Liên Hợp Quốc (26/3/2020) đã đệ trình Công hàm lên Liên Hợp Quốc để đáp lại Đệ trình của Malaysia. Trong Công hàm này, Philippines đã nêu ra 3 điểm quan trọng: (i) Philippines khẳng định rằng, các yêu sách biển của Trung Quốc là không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS. (ii) Philippines khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của Philippines tại nhóm cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines gọi là Kalayaan Island Group cùng với Bãi cạn Scarborough mà Philippines gọi là Bajo de Masinloc. (iii) Philippines viện dẫn Phán quyết của Toà Trọng tài ngày 12/7/2016 trong việc giải thích tính chất pháp lý của các cấu trúc thuộc Trường Sa, theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS. Philippines cũng nhắc lại tinh thần của Phán quyết rằng: “Các quy định của UNCLOS về các vùng biển của quốc gia ven biển sẽ có sức mạnh vượt trội so với các quyền lịch sử, hoặc các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán nếu vượt quá các quy định của UNCLOS”.

Việc Philippines đưa ra các quan điểm trên cho thấy Manila đang cứng rắn với Trung Quốc về khía cạnh pháp lý liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Giới chuyên gia cho rằng với các nội dung của Công hàm mà Philippines đệ trình như vậy, nó có sức mạnh pháp lý lớn hơn rất nhiều so với những tuyên bố của Tổng thống Duterte về vấn đề “chủ quyền” trên Biển Đông.

Trung Quốc liên tục ra Công hàm

Ngay sau khi Malaysia đệ trình yêu sách thềm lục địa mở rộng, Phái đoàn thường trực của Trung Quốc ở Liên hợp quốc (12/12/2019) đã gửi Công hàm lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa. Nội dung Công hàm của Trung Quốc vẫn là giọng điệu quen thuộc khi tìm cách xuyên tạc, ngụy biện về cái gọi là “chủ quyền” ở Biển Đông. Theo đó, phía Trung Quốc cho rằng: “ Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo thuộc Biển Đông, bao gồm Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa và Quần đảo Nam Sa; Các quần đảo của Trung Quốc ở Biển Đông có nội thủy, vùng lãnh hải và khu vực tiếp giáp; Các quần đảo của Trung Quốc ở Biển Đông có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông có tính quyền lợi lịch sử. Lập trường trên của Trung Quốc phù hợp với luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế có liên quan, là nhất quán và rõ ràng. Bản đệ trình của Malaysia nêu trên đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo Điều 5 (a) của Phụ lục I của Quy tắc tố tụng của Ủy ban về giới hạn lục địa, Chính phủ Trung Quốc yêu cầu Ủy ban bãi bỏ đệ trình đệ trình của Malaysia. Phái đoàn thường trực của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc yêu cầu Tổng thư ký Liên hợp quốc thông báo cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa mở rộng và tất cả các thành viên của Ủy ban, cũng như tất cả các quốc gia tham gia Công ước Liên hợp quốc về luật biển.

Đến ngày 23/3/2020, Trung Quốc tiếp tục ra Công hàm đáp trả Công hàm của Malaysia và Philippines. Công hàm này của Trung Quốc bao gồm những nội dung như sau: (i) Trung Quốc khẳng định Trung Quốc có “chủ quyền” đối với quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo) và Scarborough (Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham) cùng với những vùng nước kế cận các đảo này cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Trung Quốc có quyền lịch sử ở biển Đông. Chủ quyền và các quyền liên quan khác cùng với quyền tài phán của Trung Quốc được hỗ trợ bởi các bằng chứng lịch sử và pháp lý. (ii) Cái gọi là Kalayaan Island Group là một phần của quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo) và chưa bao giờ là một phần lãnh thổ của Philippines. Cho tới những năm 70, Philippines đã chiếm đoạt một cách bất hợp pháp một số cấu trúc biển này. Philippines không thể viện dẫn vào hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp này để bảo vệ cho yêu sách lãnh thổ của họ. (iii) Là một phần của Trung Sa quần đảo, Scaborough (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham đảo) là lãnh thổ lâu đời của Trung Quốc. Trung Quốc đã thực hiện chủ quyền một cách hiệu quả và liên tục và quyền tài phán tại Scarborough. Yêu sách lãnh thổ phi pháp của Philippines đối với Scarborough hoàn toàn không dựa trên luật pháp quốc tế. (iv) Toà Trọng tài trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc không có thẩm quyền vì tranh chấp này liên quan đến tranh chấp chủ quyền, phân định biển và thực hiện quyền tài phán..nên Toà này đã vi phạm UNCLOS. Các hành động và Phán quyết của Toà này là phi pháp, bất chính. Chính phủ Trung Quốc không chấp nhận, không tham gia và không thừa nhận phán quyết này và không bao giờ chấp nhận các hành vi hoặc các yêu sách dựa trên Phán quyết này. Trung Quốc và Philippines đã đi tới thoả thuận chung bỏ qua Phán quyết này, sử dụng tham vấn và thương lượng song phương để giải quyết các tranh chấp biển này. (v) Chính quyền Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa yêu cầu Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc không xem xét đến đệ trình về thềm lục địa mở rộng này của Malaysia.

Qua Công hàm này của Trung Quốc, Trung Quốc một mặt làm phức tạp hoá vấn đề bằng các khái niệm “hổ lốn, hỗn tạp” trong tuyên bố của mình, lúc thì quyền lịch sử, lúc thì chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán. Nhưng bao giờ cũng thêm câu “Trung Quốc có các bằng chứng lịch sử và pháp lý”, tuy nhiên các bằng chứng đó đâu thì không thấy Trung Quốc đưa ra, mà chỉ nói suông vậy thôi. Bên cạnh đó, những căn cứ của Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, cụ thể Scarborough là một bãi cạn, nó không thể là một “đảo” theo điều 121 của UNCLOS. Nhưng Trung Quốc muốn sử dụng nó là một “đảo” để Trung Quốc lúc thì viện dẫn chủ quyền, lúc thì quyền lịch sử… miễn “nói lấy được” thì thôi.

Thực tế ra sao

Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam. Và Việt Nam là nước duy nhất có đầy đủ chứng cứ lịch sử, pháp lý khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với hai quần đảo này. Từ khía cạnh luật quốc tế, nhất là nguyên tắc chiếm hữu thực sự cho thấy Việt Nam đã thực hiện các hành động chủ quyền thực sự đầu tiên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Việt Nam xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa bằng con đường Nhà nước; Việt Nam chiếm hữu Hoàng Sa, Trường Sa bằng các biện pháp hòa bình; Việt Nam cũng thực hiện chủ quyền công khai và liên tục trên hai quần đảo này.

Bên cạnh đó, dựa trên các quy định của luật quốc tế, nhất là nguyên tắc chiếm hữu thực sự, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi nước Việt Nam được thống nhất, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1982, Việt Nam đã lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng nay trực thuộc thành phố Đà Nẵng (từ năm 1997) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Phú Khánh nay thuộc Khánh Hòa (từ năm 1989). Vì vậy, việc Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc đưa ra công hàm cho rằng Trung Quốc có “chủ quyền” ở Biển Đông là bịa đặt và không đúng sự thật. Trung Quốc hiện chỉ là nước sử dụng vũ lực chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

RELATED ARTICLES

Tin mới