Friday, May 3, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaĐập tan sự giả dối của Mark J. Valencia: Kẻ xâm lược...

Đập tan sự giả dối của Mark J. Valencia: Kẻ xâm lược thì lấy đâu ra quyền để “thỏa hiệp” ở Biển Đông

Vị “Giáo sư” Mark J. Valencia tiếp tục có bài viết “Trung Quốc có nên thỏa hiệp ở Biển Đông?”. Trong đó đưa ra những luận điểm hết sức nực cười, hòng đánh lừa dư luận Trung Quốc đang bị “chèn ép” ở Biển Đông. Trên thực tế, Trung Quốc là kẻ đang đi xâm lược, quấy phá trên biển.

Tờ Asia Times (20/5) đăng bài của Mark J. Valencia, học giả người Mỹ, hiện đang là thỉnh giảng cao cấp tại Viện Nghiên cứu quốc gia Trung Quốc về Biển Đông.

Trong bài viết trên, Valencia cho rằng Bắc Kinh dường như khó có thể “chơi đẹp” chừng nào Mỹ vẫn còn tiếp tục can thiệp chính trị và quân sự vào khu vực. Valencia cho rằng Mỹ không có quyền yêu sách chủ quyền, không thể “danh chính ngôn thuận” xuất hiện và can dự vào Biển Đông và việc Mỹ (hay bất kỳ quốc gia thứ ba nào khác) đưa quân đội vào Biển Đông sẽ không thể khiến Trung Quốc ngừng yêu sách, trái lại sẽ làm tình hình trở nên phức tạp hơn khi Trung Quốc phải gia tăng các hoạt động “phòng vệ”. Để minh họa cho lập trường của mình, phía Trung Quốc luôn tuyên truyền rằng: “Washington luôn xem Trung Quốc là kẻ thù của họ nhưng thực tế đó chỉ là sự tưởng tượng phi lý của Mỹ. Các học giả thân Bắc Kinh cho rằng Mỹ lợi dụng tranh chấp ở Biển Đông để can dự khu vực, qua đó muốn “hạ bệ” sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc. Cụ thể, Mỹ tìm cách “gắn mác” tuần tra tự do hàng hải (FONOPs) vào những hành động đe dọa an ninh Biển Đông, vốn cũng được Trung Quốc xem là tấm lá chắn an ninh quan trọng của họ; Washington can thiệp vào đàm phán Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm chia rẽ ASEAN. Theo Valencia, chỉ có Philippines là một điển hình tốt về việc thoát khỏi sự ảnh hưởng của Mỹ về chính trị và quân sự để thỏa hiệp với Trung Quốc về “khai thác chung”. Valencia tin rằng các mô hình hợp tác kiểu Philippines – Trung Quốc sẽ tạo ra hy vọng đẩy được Mỹ ra khỏi khu vực, tạo ra sự ổn định lâu dài cho các nước. Nếu kế hoạch “gác tranh chấp, cùng khai thác” giữa Bắc Kinh và Manila thành công thì theo Valencia, đây sẽ trở thành một mô hình mà các quốc gia có yêu sách khác ở Biển Đông có thể làm theo.

Trên thực tế, tất cả lập luận, chứng cứ của Trung Quốc để yêu sách “chủ quyền” ở Biển Đông đều không có tính thuyết phục, đi ngược lại các quy định của luật pháp quốc tế hiện hành. Thậm chí Trung Quốc còn tìm mọi cách để ngụy tạo chứng cứ pháp lý nhằm khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông. Bộ Ngoại giao Trung Quốc thường nói họ có đầy đủ chứng cứ để chứng minh người Trung Quốc đã phát hiện và khai thác hai quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và “làm chủ” Biển Đông từ cách đây hơn 2.000 năm. Tuy nhiên, trên thực tế họ không đưa ra được một bằng chứng xác thực nào mà chỉ dựa vào những trích dẫn từ các sách cổ của các tác giả Trung Quốc rồi giải thích một cách tùy tiện theo ý mình rằng đó là bằng chứng về việc họ phát hiện và khai thác hai quần đảo này. Với cách thức tập hợp rất nhiều đoạn trích dẫn có dụng ý chủ quan, cắt xén, lắp ghép tùy tiện là cách Trung Quốc tung hỏa mù để đánh lừa cộng đồng quốc tế về “chủ quyền” ở Biển Đông.

Thứ nhất, luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ thừa nhận hình thức thụ đắc sơ khởi đầu tiên thông qua việc phát hiện và chiếm hữu tượng trưng. Vì thế, Trung Quốc đã đưa những tư liệu lịch sử của mình vào việc chứng minh chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, với rất nhiều tên gọi không thống nhất và không hề giống với tên gọi được sử dụng hiện nay cho hai quần đảo này, với các lập luận rất khó kiểm chứng, tính chân thực trong các tài liệu lịch sử này của Trung Quốc rất khó thuyết phục được cộng đồng quốc tế. Hơn nữa, trong luật quốc tế, mọi hành động mang danh nghĩa cá nhân đều không tạo ra cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền lãnh thổ và cũng không làm thay đổi bản chất của chủ quyền, ngay cả khi các cá nhân đó hợp thành một tập thể hoặc công ty, trừ trường hợp cá nhân, tập thể hoặc công ty đó được Nhà nước ủy quyền xác lập chủ quyền lãnh thổ thay mặt cho Nhà nước. Vì vậy, việc Trung Quốc viện dẫn ngư dân phát hiện sớm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như một cơ sở pháp lý về chủ quyền là không phù hợp với luật quốc tế.

Thứ hai, việc Trung Quốc viện dẫn Hiệp ước Pháp – Thanh (26/6/1887) về phân định biên giới giữa Trung Quốc và Bắc kỳ (Theo lập luận của nhà Thanh, do Hiệp ước Pháp – Thanh có điều khoản quy định rằng “các hòn đảo nằm ở phía Đông của đường kinh tuyến Paris 15 độ 43’ kinh tuyến Đông, theo hướng đường Bắc Nam đi qua điểm cực Đông của Trà Cổ sẽ thuộc về Trung Quốc, trong khi đảo Cô Tô và tất cả đảo khác nằm phía Tây kinh tuyến đã chỉ định sẽ thuộc về An Nam”) để tuyên bố chủ quyền là không có giá trị áp dụng cho phân chia đảo tại khu vực Biển Đông, vì: Hiệp ước Pháp – Thanh chỉ được ký kết để phân định biên giới trên bộ. Nội dung điều khoản về phân chia đảo chỉ được áp dụng cho khu vực gần biên giới, và cùng lắm thì cho Bắc kỳ. Trong khi đó, Hoàng Sa và Trường Sa được Pháp sáp nhập vào Nam kỳ. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Trung Quốc lại viện dẫn Điều 2(f) của Hiệp định Sanfransisco để khẳng định việc từ bỏ chủ quyền của Nhật tại Hoàng Sa và Trường Sa là nhằm trao lại chủ quyền cho Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, Điều 2(f) chỉ đề cập đến việc Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, chủ quyền và yêu sách đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không nói rõ ràng chủ quyền này thuộc về nước nào. Đặc biệt, với tư cách là một nước thuộc phe phát xít, đã sử dụng vũ lực một cách bất hợp pháp để chiếm đóng các vùng lãnh thổ, thì sự chiếm đóng của Nhật Bản không thể xác lập được bất kỳ chủ quyền hợp pháp nào và càng không thể chuyển giao cho nước nào thứ chủ quyền mà Nhật Bản không có.

Thứ ba, việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng tại Hoàng Sa vào năm 1974 và năm 1988. Lập luận cho các cuộc tấn công chiếm đóng này, Trung Quốc cho rằng mình đã dựa trên cơ sở của luật quốc tế, bởi Việt Nam đã sử dụng vũ lực trước, Trung Quốc chỉ tự vệ và do Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc mà Việt Nam đã xâm chiếm, nên Trung Quốc cần thu hồi lại. Thực chất vào thời điểm năm 1974 và 1988, luật quốc tế đã cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Việc sử dụng vũ lực chỉ được cho phép trong trường hợp ngoại lệ khi có sự cho phép của Liên hiệp quốc theo Điều 42 hoặc tự vệ khi bị xâm lược theo Điều 51 của Hiến chương. Trên thực tế, do thiếu vắng sự cho phép của Liên hiệp quốc và cơ sở pháp lý hợp pháp cho hành vi tự vệ, hành động sử dụng vũ lực của Trung Quốc vào năm 1974 và 1988 là hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy phạm bắt buộc jus cogen của luật quốc tế.

Thứ tư, về yêu sách vùng biển theo “đường 9 đoạn”, Trung Quốc cho rằng vùng biển có thể là vùng nước lịch sử hoặc vùng nước mà Trung Quốc có quyền lịch sử. Cho dù hiểu theo cách giải thích nào thì “đường 9 đoạn” đã ra đời từ trước khi các luật lệ quốc tế về biển ra đời, nên Trung Quốc cho rằng yêu sách “đường 9 đoạn” không bị ràng buộc hoặc điều chỉnh bởi các điều khoản của những luật lệ đó. Giá trị pháp lý của “đường 9 đoạn” phải được xem xét dưới góc độ của luật pháp quốc tế đương đại (tức là luật pháp quốc tế vào thời điểm mà đường này được vẽ ra), chứ không thể áp dụng Công ước Luật biển 1982. Nhưng trên thực tế, vào thời điểm công bố bản đồ, Trung Quốc chưa từng đưa ra sự giải thích chính thức nào về ý nghĩa pháp lý hay yêu sách của đường này, các bản đồ này chỉ có nguồn gốc từ công trình của một cá nhân, do một cá nhân vẽ ra, không có sự ủy quyền từ Nhà nước, không có sự giải thích chính thức từ Nhà nước, thì quá trình sử dụng đó chẳng thể tạo ra một danh nghĩa lịch sử hay pháp lý nào cho yêu sách sau này của Trung Quốc.

Trong vụ Philippines kiện Trung Quốc liên quan vấn đề Biển Đông, Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (12/7/2016) đã ra phán quyết kết luận: Nếu Trung Quốc đã từng có quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này đã bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với quy chế Vùng đặc quyền kinh tế theo quy định của UNCLOS 1982. Tòa cũng nhận thấy, dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân Trung Quốc và ngư dân các nước khác đã sử dụng các đảo ở Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã độc quyền kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Chính vì vậy, không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn”.

Do đó, không giống như Valencia và phía Trung Quốc tuyên truyền, Trung Quốc sẽ không ngây thơ đến mức công nhận yêu sách của các nước khác hoặc trở nên thượng tôn pháp luật khi Mỹ rút lui khỏi khu vực Biển Đông. Cho dù Washington bị các nước ASEAN quay lưng, hay tự bản thân Mỹ muốn bỏ cuộc thì tham vọng độc chiếm Biển Đông mà Trung Quốc đang thực hiện sẽ không thay đổi.

Bên cạnh đó, cũng có nhiều lý do để tin rằng sự hiện diện của Mỹ và các nước thứ ba khác tại Biển Đông là hợp lý.

Thứ nhất, cần biết rằng Biển Đông không chỉ hàm chứa lợi ích chủ quyền của các quốc gia ven biển, mà nó còn là tuyến hàng hải quốc tế quan trọng của thế giới. Trên thực tế, vùng biển nằm ngoài lãnh hải của các quốc gia ven biển, ví dụ vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hay vùng biển quốc tế, chứa đựng nhiều quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba, bao gồm cả Mỹ, Australia, Nhật Bản, EU, Ấn Độ hay bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới, thậm chí với các quốc gia không giáp biển. Vì vậy, việc Mỹ hay các quốc gia khác tiến hành FONOPs, tập trận hay tuần tra chung nếu không vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 thì không thể nói là can dự phi lý.

Thứ hai, Trung Quốc không thể nói rằng Biển Đông là lá chắn an ninh của họ để độc chiếm khu vực này. Trên thực tế, nhiều quốc gia trong đó có nhiều nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền hợp pháp, có quyền chủ quyền và quyền tài phán phù hợp với UNCLOS. Biển Đông vì thế cũng là lợi ích cốt lõi và là lá chắn an ninh của họ. Để đảm bảo an ninh chung, các quốc gia trong đó có ASEAN và Trung Quốc phải tuân thủ tuyệt đối luật chơi chung, điển hình là UNCLOS. Vậy nhưng đến nay các sự kiện về Biển Đông, điển hình là phán quyết của Tòa Trọng tài 2016, đều cho thấy chỉ Trung Quốc hành xử phi pháp và hung hăng. Nếu vắng Mỹ và các nước khác, Trung Quốc sẽ có đà lấn tới, tiếp tục chiếm các thực thể trên biển.

Thứ ba, nếu có một quốc gia cố tình tìm cách chia rẽ ASEAN trong đàm phán COC thì đó chính là Trung Quốc chứ không hẳn là Mỹ. COC được đưa ra sau khi UNCLOS, mà Trung Quốc cũng là thành viên đã ra đời. UNCLOS là nền tảng quan trọng để ASEAN và TQ thỏa thuận về cách hành xử ở Biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc đến nay vẫn muốn chơi trò “chia để trị”, tức muốn đàm phán riêng lẻ với từng nước nhằm gây áp lực, tạo ưu thế khi đàm phán COC. Gần 20 năm qua, Trung Quốc trì hoãn COC để chiếm đóng, xây đảo nhân tạo và quân sự hóa trái phép Biển Đông. Trung Quốc dùng lợi ích kinh tế để thúc đẩy Philippines vốn là nước điều phối quan hệ ASEAN – Trung Quốc hiện nay, thực hiện ý đồ “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Thực tế đó là ý đồ biến biển Philippines thành biển chung với Trung Quốc. Vì vậy, nếu Philippines triển khai khai thác chung với Trung Quốc thì đó sẽ là một tiền lệ vô cùng nguy hiểm, khiến Trung Quốc “được nước lấn tới”, mạnh tay hơn trong đe dọa, bắt nạt khu vực.

Nhìn chung, Valencia đang cố tình viết các bài xuyên tạc về vấn đề Biển Đông, ngụy biện cho yêu sách “chủ quyền” (phi pháp) của Trung Quốc. Động cơ của học giả này không ngoài mục đích kiếm tiền từ Trung Quốc.

RELATED ARTICLES

Tin mới