Trung Quốc đang theo đuổi ba mục tiêu chính trong vùng Biển Đông và Đông Nam Á là hội nhập khu vực, khai thác các nguồn tài nguyên và tăng cường an ninh
Công trình xây dựng trên Đá Châu Viên (Cuarteron Reef) tại vùng Trường Sa đang tranh chấp trên Biển Đông.
II. Ba mục tiêu
Hội nhập khu vực
Hội nhập khu vực là một ưu tiên đối với Trung Quốc như là một phần trong chiến lược “Trỗi dậy hòa bình”. Do đó, hội nhập khu vực với các quốc gia khu vực Biển Đông gồm cả hai khía cạnh chính trị và kinh tế. Để đạt được tăng trưởng rất cần nguồn tài nguyên để phát triển kinh tế hơn là phát triển quân đội và các hệ thống phòng thủ biên giới. Để tập trung năng lượng cho tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Trung Quốc bước vào một thời kỳ tạm dừng đối đầu bằng vũ lực trên quần đảo Trường Sa từ giữa những năm 1990 và thất bại chính trị mà Trung Quốc phải gánh chịu sau khi sự cố Mischief Reef (Đá Vành Khăn) với Philippines.
Chiến lược mới này được theo đuổi từ cuối những năm 1990 đã mang lại một số tiến bộ lớn đối với Trung Quốc trong đó hội nhập chính trị và kinh tế khu vực với Trung Quốc được các quốc gia Đông Nam Á chào đón rộng rãi vì các nước này đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế toàn khu vực và phục vụ cho đối trọng cân bằng với các cường quốc khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ.
Để tạo thuận lợi cho khía cạnh chính trị của hội nhập khu vực. Trung Quốc đã cam kết nhiều mối quan hệ chính trị với ASEAN. Tuy nhiên, có lẽ, khía cạnh thành công nhất của việc Trung Quốc theo đuổi hội nhập khu vực là các chương trình phát triển kinh tế, thương mại và cơ sở hạ tầng. Ví dụ, thương mại hai chiều đã tăng vọt trong hai thập kỷ qua, từ dưới 8 tỷ USD (1991) đến 106 tỷ USD (2004) và đến 231 tỷ USD (2008). Trong nhiều năm, ASEAN đã có được thặng dư thương mại với Trung Quốc, tuy nhiên lại bị suy giảm trong những năm gần đây. Để bù lại, Trung Quốc đồng ý tăng cường đầu tư song phương trong khu vực lên 60% trong hai năm.
Ngoài ra, Trung Quốc còn hỗ trợ các dự án cơ sở hạ tầng chủ yếu trong khu vực. Một trong những dự án đó là hành lang kinh tế Nam Ninh – Singapore, tập trung vào việc xây dựng một hệ thống giao thông đường sắt tích hợp kết nối Nam Ninh; Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Phnôm Pênh, Bangkok, Kuala Lampur và Singapore. Một dự án thứ hai là Tiểu vùng khu vực sông Mê Kông nối Côn Minh thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc với Singapore qua đường sắt cao tốc. Khó khăn hơn cho Trung Quốc để đạt được trong sáng kiến hội nhập khu vực là tập trung vào phát triển Vịnh Bắc Bộ và sáng kiến Hải Nam. Các sáng kiến này bao hàm thách thức rõ ràng vì chúng liên quan đến các khu vực, trong đó vấn đề chủ quyền và quyền tài phán vẫn còn tranh chấp.
Một số nhà bình luận cho rằng, nhiều sáng kiến của Trung Quốc trong việc hỗ trợ hội nhập khu vực, về cơ bản, bao hàm chiến lược “quả chín”, trong đó thời gian thuộc về phía Trung Quốc. Những nỗ lực hội nhập khu vực được Trung Quốc tiến hành nhằm gác lại các tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc gia tăng sức mạnh kinh tế và quân sự. Nếu Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh những tuyên bố mở rộng trong vùng Biển Đông một cách mạnh mẽ, các đảo và không gian biển kèm theo có thể sẽ đơn giản rơi vào tay nước này như “quả chín rụng”.
Một số người Trung Quốc tin rằng, các mục tiêu Trung Quốc đầu tư đáng kể vào Đông Nam Á và chính sách của Trung Quốc nhằm gác các tranh chấp là để tìm kiếm lòng biết ơn, hoặc có lẽ tác dụng đòn bẩy để đạt được kết quả là các quốc gia khác sẵn lòng bỏ qua việc tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông dưới sự giúp đỡ của Trung Quốc. Tuy nhiên, sự kiện gần đây cho thấy, các quốc gia Đông Nam Á mong muốn không có một thế lực lớn nào đạt được quá nhiều ảnh hưởng đối với khu vực bao gồm cả Trung Quốc. Để bù đắp ảnh hưởng khu vực ngày càng tăng của Trung Quốc hiện nay, các nước Đông Nam Á hoan nghênh sự chú ý của các cường quốc bên ngoài, trong đó có Hoa Kỳ, một phần để đảm bảo rằng, các cuộc đàm phán về tranh chấp Biển Đông được tiến hành trên một cơ sở hợp lý và bình đẳng.
Kiểm soát tài nguyên
Ngoài việc hội nhập khu vực, Trung Quốc cũng theo đuổi mục tiêu tăng cường an ninh nguồn tài nguyên lâu dài bằng cách đảm bảo sự kiểm soát đối với hầu hết các nguồn sinh vật và phi sinh vật trên Biển Đông. Một nhà bình luận Trung Quốc phát biểu rằng, “Thách thức chủ yếu hiện nay đất nước chúng ta đang đối mặt là gì? Đó là vấn đề về các nguồn tài nguyên”. Và Phó Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) Zhou Shouwei đã nói: “Việc khám phá dầu khi xa bờ và đặc biệt là ở tầng nước sâu có ý nghĩa quan trọng đối với việc bổ sung thêm nguồn tài nguyên dầu mỏ của Trung Quốc”.
Trên thực tế, Hải quân Trung Quốc nhận thấy tầm quan trọng của sức mạnh biển như một khía cạnh của an ninh các nguồn tài nguyên. Trong thế kỷ mới, các đại dương là kho tàng chiến lược tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sự phát triển bền vững của nhân loại. Sự khai thác và sử dụng triệt để của con người đối với đại dương và việc quản lý chung các đại dương phù hợp với pháp luật cơ bản là một sự tái phân phối quyền và lợi ích hàng hải của thế giới. Bất cứ ai có đầu tư lớn nhất trong các đại dương, bất cứ ai có khả năng khai thác các đại dương lớn nhất và bất cứ ai kiểm soát các đại dương sẽ có lợi thế hơn và sẽ đạt được sự thịnh vượng nhiều hơn từ biển, và rằng, đất nước đó sẽ giàu có và hùng mạnh. Vì vậy, một điều hoàn toàn chắc chắn rằng, các đại dương sẽ trở thành một đấu trường quan trọng cho cuộc đấu tranh chính trị, kinh tế và quân sự quốc tế cũng như một mục tiêu quan trọng trong cuộc đấu tranh của mỗi quốc gia về quyền và lợi ích.
Có lẽ mục đích chính của tác giả này là biện minh cho sự mở rộng lực lượng hải quân của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc ông chọn vấn đề an ninh nguồn tài nguyên và tầm quan trọng của kiểm soát quốc gia đối với các tài nguyên biển là dấu hiệu cho thấy nhận thức của tác giả về sự lo lắng trong nhân dân và lãnh đạo Trung Quốc đối với tiềm năng cung cấp thực phẩm và năng lượng cho hơn 1,3 tỷ, đặc biệt là kỳ vọng này càng tăng lên song song với vị thế kinh tế của Trung Quốc. Do đó, một mục tiêu quan trọng đối với Trung Quốc là để đảm bảo việc tiếp cận các nguồn tài nguyên của Biển Đông.
Tăng cường an ninh
Mục tiêu thứ ba của Trung Quốc dường như là để tăng cường sự kiểm soát trên Biển Đông nhằm tạo ra một vùng đệm an ninh hàng hải bảo vệ các trung tâm dân số lớn, khu công nghiệp và các điểm văn hóa phong phú của khu vực phát triển ven biển phía Đông của Trung Quốc.
Một Thiếu tướng Hải quân Trung Quốc đã nói: “Vùng biển của Trung Quốc là những lá chắn chiến lược ban đầu cho an ninh quốc gia. Khu vực ven biển là tiền tuyến của sự tăng trưởng trong việc phát triển kinh tế và phát triển xã hội dân sự của Trung Quốc. Khu vực phát triển nhất của Trung Quốc nằm dọc theo bờ biển. Khu vực ven biển cũng là vùng dân số lớn nhất so với bất kỳ vùng nào trên cả nước, sự tập trung cao nhất vào ngành công nghiệp, công nghệ cao và nền văn hóa hiện đại nhất. Nếu quốc phòng ven biển rơi vào nguy hiểm, các trung tâm chính trị, kinh tế trọng yêu của Trung Quốc sẽ phải đối mặt với các đe dọa từ bên ngoài. Trong bối cảnh chiến tranh hiện đại, kỹ năng quân sự như tấn công chính xác tầm xa ngày càng phát triển, điều này làm cho vùng ven biển trở nên có ý nghĩa hơn nhiều đối với việc bảo vệ Tổ quốc như là một khu vực cung cấp chiều sâu chiến lược và thời gian quý giá cho việc cảnh báo sớm. Tóm lại, khu vực ven biển là cửa ngõ cho toàn bộ an ninh quốc gia của Trung Quốc.
Ý tưởng cho rằng, Trung Quốc cần phải kiểm soát các vùng biển duyên hải dựa trên cách tiếp cận cổ điển địa chiến lược của một quốc gia mà an ninh gắn liền với cả đất liền và biển cả. Các nước đó thường tuân theo một chiến lược an ninh có thể cân bằng sức mạnh trên biển và đất liền để phát triển các vòng tròn đồng tâm của tầm kiểm soát, ảnh hưởng, và phạm vi chiến lược xung quanh khu vực trung tâm của lợi ích quốc gia trọng yếu. Do đó, Biển Đông, Biển Hoa Đông và Hoàng Hải được gọi là “các vùng biển gần” – thể hiện những khu vực mà các nhà chiến lược Trung Quốc tin rằng, Trung Quốc cần phải kiểm soát quân sự nhằm loại trừ mối đe dọa bên ngoài và qua đó để nâng cao mức độ an ninh cho khu vực ven biển của Trung Quốc.
Tuy nhiên, những hành động gần đây của Trung Quốc nhằm tăng cường an ninh của mình bằng cách cạnh tranh với các quốc gia khác về chủ quyền, quyền tài phán và kiểm soát trên vùng Biển Đông không hề tính đến lợi ích của các quốc gia khác. Vì vậy, bắt đầu từ tháng 3/2009, Trung Quốc thay đổi chiến lược khu vực đi từ hội nhập và hợp tác về tài nguyên sang cạnh tranh về lợi ích chủ quyền và an ninh. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cần nhớ rằng, hội nhập khu vực, kiểm soát tài nguyên và tăng cường an ninh là những mục tiêu chung của tất cả các nước trung khu vực. Do vậy, các giải pháp hai bên đều thắng tập trung vào lợi ích chung có nhiều triển vọng khả thi hơn so với các giải pháp thắng – thua dựa trên cạnh tranh về chủ quyền, quyền tài phán và kiểm soát.
Kết luận
Ba tranh chấp trong Biển Đông là nguyên nhân của sự bất ổn định và thậm chí là xung đột trong hơn bốn thập kỷ qua. Hòa bình và an ninh trong tương lai ở Biển Đông đòi hỏi tất cả các nước trong khu vực phải coi trọng lợi ích chung hơn là chỉ theo đuổi lợi ích quốc gia mình. Điều này sẽ bao gồm cam kết của tất cả các nước trong khu vực và nỗ lực thúc đẩy hội nhập chính trị, kinh tế, thương mại và phát triển chung các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật biển ở Biển Đông. Các quốc gia nằm ngoài khu vực nhưng có lợi ích trong khu vực, trong đó có Hoa Kỳ, có thể cung cấp, hỗ trợ và giúp đỡ cho những nỗ lực này.
Để đạt được một sự ổn định lâu dài đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới. Hiện nay, những đòi hỏi về chủ quyền, quyền tài phán và việc kiểm soát đang dựa trên cách tiếp cận “thắng – thua”, do đó dẫn đến một sự dàn xếp chỉ dựa trên quyền lực, không quan tâm đến lợi ích chung lâu dài. Vì vậy, tất cả các bên cần phải thúc đẩy phương pháp giải quyết vấn đề trên cơ sở cùng thắng (win – win) và tập trung vào lợi ích chung hơn là chạy theo cách tiếp cận dân tộc chủ nghĩa chỉ đáp ứng lợi ích của quốc gia. Chỉ có tư duy như vậy mới đảm bảo rằng, diễn biến trên Biển Đông trong thế kỷ XXI không lặp lại sự đối đầu và xung đội như trong thế kỳ XX.
Hết.