Monday, December 30, 2024
Trang chủThâm cung bí sửCuộc đấu trí giữa ông Lê Đức Thọ và Kissinger tại Paris

Cuộc đấu trí giữa ông Lê Đức Thọ và Kissinger tại Paris

Ba năm 1970-1972, hai ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger trải qua hàng chục phiên đàm phán căng thẳng tại Paris để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Cố vấn Lê Đức Thọ (giữa) tại cuộc đàm phán với Henry Kissinger, ngày 13/1/1973.

Đàm phán bốn bên tại Paris bắt đầu từ năm 1969, nhưng bế tắc với các phiên công khai. Để tháo gỡ, Mỹ và Hà Nội sắp xếp kênh bí mật, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger là nhân vật chính.

Ông Lê Đức Thọ quê Nam Định, tham gia cách mạng từ nhỏ, trải qua nhiều nhà tù từ Hỏa Lò đến Sơn La, Côn Đảo. Tết Mậu Thân 1968, ông vào tăng cường cho Trung ương Cục miền Nam. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử ông làm cố vấn đặc biệt cho Trưởng đoàn ngoại giao Xuân Thủy tại đàm phán Paris. Lúc đó ông 57 tuổi, là Ủy viên Bộ Chính trị.

Trong hồi ký, Kissinger miêu tả ông Lê Đức Thọ tóc hoa râm, đường bệ, bao giờ cũng mặc bộ đại cán xám hoặc marông, đôi mắt to và sáng. Ông Thọ rất bình tĩnh, thái độ “cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần”.

Kissinger là Cố vấn đặc biệt về an ninh quốc gia của Nhà trắng, từng dạy tại Đại học Harvard, là nhà ngoại giao có tài, hiểu biết sâu về Việt Nam.

Cuộc gặp đầu tiên

Hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger gặp nhau lần đầu ngày 21/2/1970, tại nhà 11 phố Darthé, Choisy-le-roi, Paris. Kissinger đến, ông Xuân Thủy ra đón, dẫn vào phòng khách nhỏ. “Đây là giây phút lịch sử. Hai con người hoàn toàn khác nhau về nguồn gốc xã hội, bản chất, lý tưởng chính trị, gặp nhau rồi cùng nhau bàn cãi quyết liệt trong ba năm để tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam”, nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi, thư ký của ông Lê Đức Thọ kể lại trong cuốn Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ và Kissinger tại Paris.

Xin lỗi đến muộn và đề nghị giữ bí mật cuộc gặp, ông Kissinger khẳng định Mỹ muốn đàm phán thiện chí, nghiêm chỉnh, nhưng lưu ý tình hình nước Mỹ có lợi hơn cho Nixon, tình hình miền Nam khó khăn hơn cho Hà Nội. Hà Nội cũng không còn sự ủng hộ của nhiều nước như trước. Mỹ không cứng nhắc và muốn chấm dứt chiến tranh thực tế chứ không phải lý thuyết.

Kissinger nhấn mạnh sự tiến bộ trong đàm phán tùy thuộc vào việc không tăng cường bạo lực ở miền Nam. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Mỹ sẽ giúp đỡ Việt Nam đổi mới, xây dựng lại đất nước và “sẽ không bao giờ là mối đe dọa cho nền độc lập của Việt Nam”. Trước khi kết thúc, Kissinger xin lỗi vì nói dài, nhưng nhấn thêm “giáo sư Đại học Harvard bao giờ cũng nói trong 55 phút”.

Chiều cùng ngày, ông Lê Đức Thọ nói Kissinger đánh giá không đúng thực tế chiến trường. “Đó là quyền của ông. Suốt 15 năm qua, khi đánh giá tương quan lực lượng hai bên, các ông rất sai về chúng tôi”, ông Lê Đức Thọ nói và không quên nhắc Việt Nam hóa chiến tranh bắt đầu thất bại.

Cố vấn của đoàn Hà Nội khẳng định dù Mỹ tiếp tục thế nào cũng không thay đổi được chiều hướng cuộc chiến. “Dân tộc tôi bị người ta lừa gạt nhiều rồi, muốn giải quyết vấn đề thì phải thành thật”, ông Thọ nói. Trước khi kết thúc bài phát biểu, ông Thọ nhấn mạnh: “Trong hai con đường hòa bình và chiến tranh, các ông nên chọn lấy một. Nếu các ông chọn con đường hòa bình thì chúng ta có thể giải quyết vấn đề một cách hòa bình”.

Đàm phán bế tắc

Đầu tháng 10/1972, sau khi Hà Nội đưa ra dự thảo hiệp định Paris, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger cơ bản thống nhất được nhiều điều khoản và dự tính mốc thời gian ký. Kissinger nói sẽ đến Hà Nội ký tắt, ông Thọ hài hước “có khi phải nhảy dù”, bởi lúc đó qua sông Hồng phải đi cầu phao. Nhưng sau đó, Mỹ trì hoãn thực hiện và Kissinger không đi Hà Nội như dự kiến.

Cuộc gặp tháng 11, ông Kissinger cố làm dịu không khí bằng lời mời ông Lê Đức Thọ giảng tại Đại học Harvard. Đáp lại, ông Thọ đọc bài chuẩn bị sẵn, dài 5 trang, nêu thiện chí của Hà Nội và tố cáo sự lật lọng của Mỹ. “Chúng tôi đã bị người Nhật, người Pháp, người Mỹ lừa dối, nhưng chưa bao giờ trắng trợn như lần này”, ông Thọ gay gắt và hỏi Kissinger “ông từng nói cần thiết phải hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, rồi ông lật ngược đi thì ông nghĩ chúng tôi hiểu ông là người như thế nào?”.

Kissinger thanh minh cuộc chiến kéo dài nên khi đi đến gần giải pháp mới thấy những vấn đề phức tạp, chưa kịp nghĩ tới. Hứa hẹn có thể làm xong phần lớn văn bản trong tuần này, tuy nhiên ông đòi sửa lại hầu hết chương trong hiệp định, nhất là về ngừng bắn, rút quân, chính trị nội bộ miền Nam.

Mỹ đòi xóa tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong lời mở đầu và các chi tiết khác trong hiệp định; rút tất cả lực lượng không phải miền Nam khỏi miền Nam; không công nhận có hai chính quyền, hai quân đội, hai địa bàn ở miền Nam. Kissinger cũng không nói gì về trách nhiệm hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam.

Nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi kể ông Lê Đức Thọ đã nhắc lại Nixon từng trao công hàm cho Hà Nội khẳng định hiệp định “xem như hoàn thành” và phê phán những luận điểm của Kissinger.

Ông Thọ nêu rõ vai trò của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở miền Nam và trên trường quốc tế. Nhiều năm nay, miền Nam đã có ba vùng, do chính quyền Sài Gòn, quân giải phóng kiểm soát và vùng tranh chấp. Kissinger đòi xóa bỏ các vùng do Chính phủ Cách mạng lâm thời (quân giải phóng) kiểm soát là điều mà quân Mỹ và Sài Gòn không làm được từ trước đến nay. Đề nghị này là vô lý.

Việc Mỹ đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam bị ông Thọ bác bỏ. Nhân dân Việt Nam có quyền chống xâm lược và không thể đặt việc rút quân miền Bắc ngang hàng với rút quân Mỹ. “Đặt vấn đề như vậy không chính đáng, trái đạo lý, chính trị, pháp lý”, ông Thọ phản biện Kissinger.

Ông Thọ giữ nguyên quan điểm Hà Nội thả tù binh Mỹ thì Sài Gòn thả hết cả nhân viên dân sự miền Nam còn bị giam giữ. “Ông thấy thế giới có cuộc chiến tranh nào giữa các bên khi chấm dứt rồi, một bên trao trả người bị bắt, còn bên kia giữ lại không”, ông Thọ tiếp tục chất vấn Kissinger.

Kissinger đồng ý một số đề nghị của ông Lê Đức Thọ, nhưng hai bên còn nhiều tranh cãi. Ông Thọ có lần hỏi thẳng “các ông có muốn đàm phán nữa không, nếu ông cố vấn không muốn thì chúng tôi cũng thôi, mà muốn bàn nữa thì chúng tôi bàn, nhưng phải có đi có lại”.

Hiệp đấu cuối cùng

Ngày 18/12/1972, khi ông Lê Đức Thọ vừa từ sân bay Gia Lâm về tới nhà thì máy bay B-52 của Mỹ bắt đầu dội bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố khác. Nhưng kế hoạch đánh bom nhằm lật ngược tình thế của Nixon thất bại, các cuộc gặp giữa ông Lê Đức Thọ và Kissinger được nối lại đầu năm 1973. Đây cũng là hiệp đấu cuối cùng giữa hai người để đi đến ký hiệp định.

“Cố vấn Lê Đức Thọ tới Paris trong hào quang trận Điện Biên phủ trên không”, ông Lưu Văn Lợi miêu tả.

Khác với thường lệ, đoàn Việt Nam không ra đón Kissinger ngoài cổng. Hà Nội biểu thị sự lạnh nhạt với người Mỹ, sau 12 ngày đêm khói lửa trên bầu trời Hà Nội. “Các ông lấy cớ đàm phán gián đoạn để ném bom miền Bắc Việt Nam lúc tôi vừa về đến nhà. Hành động của các ông trắng trợn và thô bạo. Các ông tưởng làm như vậy có thể khuất phục được chúng tôi, nhưng các ông nhầm. Chính các ông làm cho đàm phán khó khăn, danh dự nước Mỹ hoen ố”, ông Lê Đức Thọ phê phán Mỹ.

Ông Kissinger thanh minh, cách đàm phán của Hà Nội cuối năm 1972 khiến Washington cho rằng muốn kéo dài, không giải quyết vấn đề. Khi Kissinger đề nghị không chỉ trích nữa, ông Thọ đáp: “Tôi kiềm chế lắm rồi, chứ dư luận thế giới, nhà báo và các nhân vật ở Mỹ còn dùng câu chữ dữ dội hơn nhiều”.

Cách ký hiệp định là vấn đề kỹ thuật, nhưng được bốn bên tham gia đàm phán quan tâm. Ông Lê Đức Thọ đòi hai bên ký và bốn bên ký. Kissinger không đồng ý, đề ra ba phương án nhưng đều không có tên Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Sau đó, Kissinger đề nghị hai bên ký, bốn bên ký nhưng trong bản bốn bên thì mỗi bên ký một tờ riêng biệt và cả bốn tờ gộp chung vào hiệp định; người ký đều ghi chức vụ. Hai bên thỏa thuận như vậy.

Ông Lê Đức Thọ đề nghị thêm Nghị định thư về bồi thường. Kissinger nói Mỹ sẽ đóng góp vào hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng không nên có Nghị định thư khi tù binh Mỹ chưa được thả và số tiền cần Quốc hội thông qua. Vì vậy, hai bên sẽ trao công hàm và bàn sau. Ông Thọ đồng ý.

Ngày họp cuối hôm 13/1/1973, Kissinger đề nghị lễ ký không đọc diễn văn và chỉ chúc từng người bên ngoài. Đó là ngày trang trọng ở Mỹ, ở Việt Nam càng trang trọng hơn. “Vì vậy, chúng ta nên khởi đầu với thái độ hòa giải, quảng đại, nồng nhiệt với nhau”, Kissinger nói và ông Thọ đồng ý.

Kết thúc ngày họp cuối, hai đoàn ăn cơm chung. Ông Lê Đức Thọ nâng cốc với Kissinger, nói “đây là kết quả bước đầu nhưng rất quan trọng và cơ bản để lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Kissinger đáp “đến lúc này hòa bình sẽ trở lại Đông Dương, với hai dân tộc chúng ta vào ngày ký hiệp định”.

Ngày 23/1/1973, sau khi ký tắt hiệp định Paris, Kissinger trao bút cho ông Lê Đức Thọ và nói “tôi tặng ông cây bút này để nhớ mãi ngày lịch sử”. Ông Lê Đức Thọ tặng lại Kissinger bút của mình, dặn “ông ký rồi phải giữ lời nhé”.

Sau khi hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký ngày 27/1/1973, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger được trao giải Nobel Hòa bình. Tuy nhiên, ông Thọ từ chối nhận với lý do Mỹ là gây chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Một bên đi xâm lược, một bên chống lại quân xâm lược để giải phóng dân tộc mình không thể cùng chia nhau giải Nobel hòa bình. Hơn nữa, hòa bình chưa thực sự hiện diện ở Việt Nam, đất nước vẫn còn chia cắt.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới