Wednesday, May 8, 2024
Trang chủUncategorizedLiệu TQ có xâm chiếm bãi đá Ba Đầu như đã từng...

Liệu TQ có xâm chiếm bãi đá Ba Đầu như đã từng xâm chiếm bãi cạn Scarbrough trước đây?

Từ cuối năm 2020, người ta thấy tàu cá Trung Quốc xuất hiện ngày càng nhiều hơn ở vùng biển quần đảo Trường Sa. Đặc biệt, trong tháng 3/2021, Bắc Kinh ngang nhiên đưa khoảng 220 tàu cá dàn thành nhiều hàng ngang hình chữ V tập trung ở khu vực bãi đá Ba Đầu.

Hiện nay, tuy không duy trì số lượng lớn như vậy nữa, nhưng vẫn còn nhiều tàu cá của Trung Quốc “nằm lỳ” thường xuyên ở đây. Ngoài ra, còn có khoảng 100 chiếc neo đậu phía ngoài và tản mát ở các khu vực lân cận, sẵn sàng chi viện cho các hoạt động của Trung Quốc tại bãi đá trên khi cần thiết. Nhìn vào sự kiện Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough thuộc Philippines năm 2012 và những gì đã và đang diễn ra ở bãi đá Ba Đầu thời gian gần đây, giới quan sát của khu vực và thế giới quan tâm đến tình hình Biển Đông không thể không đặt câu hỏi: Việc Trung Quốc liên tục duy trì và cho tàu cá “nằm lỳ” ở bãi đá Ba Đầu như vậy thì đến một thời điểm nào đó, bãi đá Ba Đầu có cùng chung số phận như bãi cạn Scarborough hay không, trong khi tham vọng bành trướng trên biển của nước này vẫn không hề thay đổi. Câu hỏi này không phải không có cơ sở, bởi sự kiện bãi cạn Scarborough đã từng là tiền lệ, hãy xem lại hai sự kiện này ra sao.

Từ việc chiếm quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough năm 2012

Bãi cạn Scarborough là một đảo san hô vòng gồm nhiều đá ngầm và đá nổi trên Biển Đông, nằm cách đảo chính Luzon của Philippines khoảng 230km và cách bờ biển đông nam Trung Quốc khoảng 1.000km. Philippines tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn này ngay sau khi giành được độc lập năm 1946. Tuy nhiên, bãi cạn Scarborough vẫn là tâm điểm tranh chấp dai dẳng giữa Philippines, Trung Quốc và Đài Loan nhiều năm.

Năm 2012, xảy ra đụng độ giữa Trung Quốc và Philippines ở  Scarborough nhằm tranh chấp quyền kiểm soát bãi cạn và là cuộc đối đầu kéo dài nhất trên Biển Đông trong hai thập kỷ qua khi nó diễn ra trong gần 3 tháng. Trước khi vụ việc diễn ra, hai bên cũng đã có nhiều lần “cọ sát” với nhau vào những năm 90 và đầu thập niên 2000. Hải quân Philippines từng bắt giữ các ngư dân Trung Quốc khi tàu của họ đi vào bãi cạn này. Ngày 08/4/2012, Philippines phát hiện một số lượng lớn tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép tại bãi cạn trên nên chuẩn bị tiến hành bắt giữ nhưng bị các tàu chấp pháp của Trung Quốc ngăn cản. Sau nhiều tuần hai bên cử đại diện gặp gỡ nhóm họp, thảo luận và đàm phán nhưng không mang lại kết quả như mong muốn, trong khi trên thực địa, phía Philippines lại rơi vào thế yếu, bị phía Trung Quốc lấn át về số lượng tàu thuyền và thiếu các giải pháp thay thế khả thi. Ngày 15/6/2012, Philippines buộc phải rút các tàu của mình ra khỏi bãi cạn với lý do tránh bão. Song, phía Trung Quốc cũng không rút tàu vào thời hạn chót theo như thỏa thuận hai bên đề ra, ngược lại họ vẫn duy trì các tàu cá và tàu hải giám tại khu vực, dần dần giành quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough trên thực tế từ đó đến nay.

Trong vụ đụng độ tại bãi cạn Scarborough, Bắc Kinh đã có sự tính toán rất kỹ để khởi sự, cụ thể: 1/ Họ lợi dụng sự chần chừ, mập mờ của Mỹ đối với vấn đề Biển Đông của Philippines. Theo đó, dưới thời chính quyền Tổng thống B.Obama, Washington trong khi cam kết tôn trọng Hiệp ước phòng thủ chung đã ký với Philippines năm 1951, nhưng lại không nêu rõ bãi cạn Scarborough có nằm trong phạm vi bảo vệ của Mỹ hay không. Thêm vào đó, tuy tăng cường hỗ trợ quân sự và ngoại giao cho Philippines do lo ngại cách hành xử cứng rắn của Trung Quốc ở Biển Đông, song Mỹ vẫn duy trì lập trường trung lập đối với các yêu sách về chủ quyền của các bên, trong đó có Philippines. 2/ Bắc Kinh lợi dụng yếu tố thời tiết trên Biển Đông để hành sự. Nhân lúc có bão Gutchol đang diễn ra trên biển, Trung Quốc đã thỏa thuận với Philippines rằng hai bên cùng rút quân khỏi bãi cạn, nhưng trên thực tế, họ chẳng những không rời đi, mà còn ngăn cản các lực lượng của Manila quay lại. Theo hình ảnh từ máy bay trinh sát của Philippines thu được, tàu cá và tàu chấp pháp của Trung Quốc đã hiện diện xung quanh các đầm phá thuộc bãi cạn Scarborough. Hơn thế, phía Trung Quốc còn xây dựng một rào chắn tại lối vào nhỏ hẹp của bãi cạn, cử các tàu chấp pháp canh gác để ngăn tàu Philippines quay trở lại đây. 3/ Họ dựa vào sức mạnh kinh tế – quân sự để gây sức ép với Philippines. Thời điểm đó, Trung Quốc đã là nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (từ năm 2010) và là quốc gia có lực lượng hải quân hùng mạnh nhất châu Á. So với thời điểm diễn ra sự kiện Trung Quốc cưỡng chiếm đá Vành Khăn năm 1995, sức mạnh kinh tế và hải quân của Trung Quốc đã hoàn toàn khác xa. Trong khi đó, thế và lực của Philippines so với Trung Quốc yếu hơn rất nhiều. Cụ thể: Về quân sự, lực lượng Hải quân Philippines thuộc hàng yếu kém nhất trong khu vực; lực lượng không quân không đủ năng lực tuần tra và giám sát vùng lãnh hải rộng lớn của nước này. Về chính trị, vài tháng sau khi nhậm chức Tổng thống (2010), ông Benigno Aquino III đã thách thức Trung Quốc ở Biển Đông với các động thái như chuyển trọng tâm nhiệm vụ của Lực lượng Vũ trang Philippines từ tập trung vào an ninh nội địa sang phòng vệ bên ngoài, vận động sự ủng hộ ngoại giao và quân sự từ Mỹ để đối trọng lại Trung Quốc. Chính sách cứng rắn với Bắc Kinh của Philippines đã làm cho quan hệ Trung – Phi xấu đi nghiêm trọng. Tuy vậy, chính sách này lại không có tính răn đe cao bởi Trung Quốc thừa hiểu, Manila với lực lượng quân sự yếu kém, cuối cùng sẽ tìm cách tránh đối đầu quân sự trực tiếp với họ để giải quyết tranh chấp. 4/ Bắc Kinh tìm được kẽ hở để biện minh cho hành động của mình. Nghĩa là, Bắc Kinh đã tích cực hành động theo hướng tỏ ra là “tự vệ” trong vụ việc này nhằm chứng tỏ với cộng đồng quốc tế rằng họ không phải là một nước lớn bắt nạt các nước vừa và nhỏ, từ đó tránh phản ứng gay gắt của dư luận thế giới và không tạo ra phản ứng lớn từ các cường quốc. Trên thực tế, Trung Quốc đã tìm cách khiêu khích Philippines để không mang tiếng là bên tấn công trước, sử dụng lực lượng dân sự trong hành pháp hàng hải, không dùng hải quân. Các tàu của Trung Quốc hầu hết đều không trang bị vũ khí với hàm ý “chỉ hiện diện, chứ không tham chiến”. Khi điều tàu chấp pháp đến bãi cạn Scarborough, Trung Quốc tuyên bố đó chỉ là hành động nhằm “hỗ trợ người dân rút đi trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt”.

Sau khi chiếm quyền kiểm soát bãi cạn, từ đó đến nay, Bắc Kinh luôn tìm mọi cách, trong đó có cả hành động đâm va trực tiếp nhằm hạn chế các phương tiện tiếp cận khu vực này, đặc biệt là tàu cá của Philippines. Mặc dù Philippines vẫn tiến hành các cuộc tuần tra ở bãi cạn Scarborough nhưng luôn bị Trung Quốc phản đối. Từ đó đến nay, Scarborough vẫn do Trung Quốc kiểm soát.

… đến việc Trung Quốc đang tính toán gì ở bãi đá Ba Đầu?

Bãi đá Ba Đầu là một rạn san hô hình chữ V, có tổng diện tích khoảng 10km2, chỉ nổi lên khỏi mặt nước khi triều cường xuống thấp, nằm trong vùng 12 hải lý của đảo Sinh Tồn Đông, thuộc quyền quản lý và chủ quyền của Việt Nam, nhưng Trung Quốc và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền đối với bãi đá này. Chiểu theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), cùng với một số bằng chứng pháp lý, lịch sử khác, thì trong ba nước có tuyên bố chủ quyền đối với bãi đá Ba Đầu, Việt Nam là bên có cơ sở pháp lý mạnh nhất.

Sau khi cưỡng chiếm và hoàn tất việc xây dựng các căn cứ quân sự trái phép trên các bãi đá thuộc chủ quyền của Việt Nam, từ năm 2014 – 2015, phía Trung Quốc đã tăng cường sự hiện diện các loại tàu, trong đó nhiều nhất là tàu cá tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ở các bãi cạn không người, đặc biệt là bãi đá Ba Đầu, họ cho neo đậu hàng chục tàu cá, cả tàu cũ lẫn tàu mới đóng. Và như phần đầu bài này đã mô tả, từ cuối năm 2020 đến nay, tàu cá Trung Quốc hiện diện ngày càng nhiều hơn ở bãi đá Ba Đầu.

Một thông tin không thể không nhắc đến là, không lâu sau khi Philippines mất quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough, các quan chức và chuyên gia của Trung Quốc đã bàn về cái gọi là “Mô hình Scarborough” nhằm mở rộng ảnh hưởng ở khu vực và lấy đó làm “kịch bản” để biến các vùng biển đang có tranh chấp với các nước ở Biển Đông thành chủ quyền của mình. Do đó có thể thấy, khu vực mà Bắc Kinh đang nhắm đến theo “Mô hình Scarborough” mà các quan chức và chuyên gia của Trung Quốc khuyến nghị chính là bãi đá Ba Đầu. Cơ sở cho “kịch bản” này xuất phát từ mấy lý do sau:

Thứ nhất, bãi đá Ba Đầu cách Đá Vành Khăn khoảng 50 hải lý. Đá Vành Khăn giờ đây không còn là một rạn san hô tự nhiên nữa, mà trở thành một đảo nhân tạo với nhiều cơ sở quân sự được Trung Quốc xây dựng sau khi cưỡng chiếm từ năm 1995. Nếu Bắc Kinh chiếm được bãi đá Ba Đầu thì họ cũng sẽ cải tạo bãi đá này để dần hoàn chỉnh hệ thống các đảo nhân tạo kiêm căn cứ quân sự ở khắp khu vực Biển Đông. Theo ông Bryan Clark – chuyên gia tại Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách, có trụ sở ở Washington/Mỹ cho rằng, sở dĩ Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough là vì bãi cạn này nằm khá gần với đảo Luzon, nếu Trung Quốc triển khai tên lửa phòng không và tên lửa đất đối đất tới đây thì chúng hoàn toàn có khả năng vươn tới Philippines. Đây sẽ là đòn tấn công trực diện, đủ sức đẩy lùi mọi nỗ lực của Manila nhằm chiếm quyền kiểm soát bãi cạn này. Ông Clark còn nhấn mạnh thêm: “Trung Quốc muốn chiếm bãi cạn Scarborough để đặt radar ở đây, từ đó từng bước tiến tới thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ). Làm được điều này sẽ cho phép họ kiểm soát và giám sát trên khắp Biển Đông”.

Thứ hai, dù rằng rất muốn chiếm cứ bãi đá Ba Đầu để thỏa mãn ý đồ của mình, nhưng vì nhiều lý do, Bắc Kinh không thể sử dụng phương án sức mạnh quân sự được. Theo giới phân tích khu vực và quốc tế nhận định, việc Trung Quốc điều trên 200 tàu cá đến Ba Đầu ngày 21/3/2021 và sau đó phải rút bớt đi do sự phản ứng mạnh mẽ của các nước trong và ngoài khu vực, không phải là điều ngẫu nhiên, mà có chủ đích, đó là: 1) Với số lượng lớn tàu cá, được gắn kết thành các cấu trúc chặt chẽ, lại tập kết với thời gian rất lâu (gần ba tháng) thì không thể nói là để tránh thời tiết xấu như lời giải thích của phía Trung Quốc được. Hơn nữa, việc tập kết số lượng lớn tàu cá chỉ xảy ra ở bãi đá Ba Đầu, trong khi xung quanh khu vực cụm đảo Sinh Tồn có rất nhiều cấu trúc tự nhiên phù hợp cho việc tàu bè neo đậu tránh thời tiết xấu nhưng tại đó lại gần như không có tàu nào của Trung Quốc neo đậu, trú ẩn. Đặc biệt, tháng ba và tháng tư hàng năm là khoảng thời gian thời tiết ở Trường Sa yên lặng nhất trong năm, rất thuận tiện cho tàu bè ra khơi đánh bắt. Việc Trung Quốc lấy lý do các tàu cá này trú ẩn ở Ba Đầu để tránh thời tiết xấu chẳng những không đúng với dữ liệu hình ảnh vệ tinh thu được, mà còn trái với quy luật thiên nhiên tại khu vực. Vì thế, có thể khẳng định rằng, cái mà Trung Quốc đang nhắm tới là họ muốn sử dụng chiến thuật tương tự như ở Scarborough năm 2012 để chiếm quyền kiểm soát hoàn toàn bãi đá Ba Đầu và vùng nước xung quanh. 2) Đây cũng có thể là động tác nhằm “thăm dò” phản ứng của đối phương, nếu Việt Nam và các nước trong khu vực, thế giới không lên tiếng phản đối, Trung Quốc sẽ cho tàu đến Ba Đầu thường trực và liên tục hiện diện tại đây. Hành động này trên thực tế đương nhiên ngay lập tức đã bị Philippines, Việt Nam và nhiều nước khác trong và ngoài khu vực lên tiếng phản đối mạnh mẽ, buộc số tàu này phải giải tán, nhưng phía Trung Quốc vẫn duy trì một số lượng nhất định tàu cá ở đây cho đến thời điểm hiện nay. Đáng chú ý, mặc dù thời tiết tốt, sóng yên biển lặng, nhưng số tàu cá này vẫn neo đậu nằm yên ở các vị trí có luồng ra vào bãi. Hãn hữu lắm mới thấy một vài ngư dân Trung Quốc chèo thuyền nhỏ thả lưới, bắt cá phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. 3) Bãi đá Ba Đầu là khu vực có vị trí chiến lược trên Biển Đông, do đó nếu Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn bãi đá này và cho tàu thuyền hoạt động ở đó một cách liên tục mà không bị Việt Nam, hoặc các nước trong khu vực cản trở, thì nó sẽ giúp Trung Quốc đảm bảo được một con đường tiếp vận xuyên suốt từ bắc xuống nam khu vực cụm đảo Sinh Tồn. Điều này sẽ giúp tăng cường khả năng hoạt động dài hạn của các lực lượng Trung Quốc ở phía nam Biển Đông, nhất là các lực lượng chấp pháp biển. Những hình ảnh cung cấp từ vệ tinh đã củng cố vững chắc cho giả thuyết này, khi mà hầu như tất cả các tàu cá, tàu hậu cần, tàu hải cảnh của Trung Quốc khi muốn di chuyển từ bắc xuống nam để tới Gạc Ma đều neo đậu trước hết ở Ba Đầu. 4) Trong sự kiện bãi cạn Scarborough năm 2012, Philippines đã đổ lỗi cho phía Mỹ vì đã không ngăn chặn kịp thời, để cho Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát bãi cạn này, tạo điều kiện để thời gian sau đó Trung Quốc ồ ạt mở rộng xây dựng các công trình quân sự trái phép trên Biển Đông. Còn đối với sự kiện Trung Quốc đưa nhiều tàu cá tập kết ở Ba Đầu và nằm lỳ dài ngày ở đây, người ta cũng nhận thấy dường như Bắc Kinh đang quan sát động thái của Tổng thống J.Biden để xem chính quyền Washington hiện tại sẽ có phản ứng như thế nào sau cam kết bắt tay với các đồng minh khu vực để đẩy lùi sự khiêu khích từ Trung Quốc. Ông Schuster – thành viên Chương trình chính sách ngoại giao và khoa học quân sự thuộc Đại học Thái Bình Dương ở Hawaii cảnh báo: “Đây là phép thử để xem chính quyền ông Biden có thể sẵn sàng làm đến mức nào trước khi Bắc Kinh tiến hành bước tiếp theo”. Như vậy có thể thấy, việc Trung Quốc điều hàng trăm tàu cá đến bãi đá Ba Đầu và cho đến nay vẫn loanh quanh tại khu vực này là nhằm tạo lập sự hiện diện thường xuyên với số lượng lớn tại đây, biến sự hiện diện này thành việc làm “bình thường”, tiến dần tới việc chiếm quyền kiểm soát hoàn toàn và có thể tiến hành xây dựng, cải tạo phi pháp bãi đá này thành một cơ sở quân sự mới. Đây có thể nói là chiến thuật “lát cắt salami” mới của Trung Quốc hòng mở rộng quyền kiểm soát Biển Đông trên thực tế, tức là sử dụng một số lượng lớn tàu cá tập hợp ở một khu vực có tranh chấp nhằm cản trở hoạt động của các nước ở khu vực này, đồng thời, chính những tàu cá này có thể tản ra, bao vây, kết hợp với tàu của lực lượng chấp pháp, quấy rối hoặc cản trở hoạt động của các nước khác. Việc Trung Quốc tập kết số lượng lớn tàu cá ở bãi đá Ba Đầu hồi tháng 3/2021 và cho đến nay vẫn duy trì một số lượng tàu cá nhất định ở đây, một lần nữa làm dấy lên quan ngại về mục tiêu, ý đồ của Trung Quốc ở khu vực, làm xói mòn lòng tin chiến lược vào lúc khu vực cần có sự hợp tác mạnh mẽ hơn nữa để phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19. Hành động này khó có thể coi là hành vi có thiện chí trong bối cảnh ASEAN và Trung Quốc đang nỗ lực thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) sớm về đích. Đồng thời, nó còn vi phạm tinh thần Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông (DOC), vi phạm nguyên tắc kiềm chế không làm phức tạp thêm tình hình vốn đã ngày càng phức tạp tại đây. Động thái trên cũng cảnh báo Việt Nam và các nước có chủ quyền ở Biển Đông cần phải hết sức cảnh giác với ý đồ của Trung Quốc.

RELATED ARTICLES

Tin mới