Saturday, November 23, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiVÌ SAO TRUNG QUỐC LẤN BIỂN, MỞ RỘNG CÁC VỊ TRÍ ĐANG...

VÌ SAO TRUNG QUỐC LẤN BIỂN, MỞ RỘNG CÁC VỊ TRÍ ĐANG CHIẾM ĐÓNG Ở TRƯỜNG SA

BienDong.Net: Thời gian qua, một số tờ báo của Hồng Kông như “Đại công báo”, “Văn Hối”, “Đông phương” và nguyệt san “Phòng vệ Hán Hoà” dẫn lời các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh cho rằng tuy từ đầu năm 2009 đến nay, các bước chuẩn bị đấu tranh quân sự của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam) vô cùng rầm rộ.

Tuy nhiên, các báo này nhận định rằng ở vào thời điểm hiện nay, nếu khai chiến trên Biển Đông, chưa chắc Trung Quốc đã thắng Việt Nam; còn rất nhiều rào cản khiến Trung Quốc chưa thể áp dụng hành động quân sự thực tế trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc cũng cảnh báo nếu Bắc Kinh áp dụng hành động quân sự, cái giá phải trả sẽ rất đắt.

Hiện, Trung Quốc có tranh chấp ở Biển Đông lớn nhất với Việt Nam, tiếp đó là Philippines rồi đến Malaysia. Trong đó, Philippines là đồng minh quân sự của Mỹ nên Trung Quốc chưa thể phát động một cuộc chiến tranh với Philippines. Malaysia ở tận phía cực Nam của Biển Đông nên cũng ít có khả năng Trung Quốc gây chiến với Malaysia. Vì thế, khả năng bùng nổ xung đột quân sự tại khu vực Biển Đông chỉ có thể là Trung Quốc tấn công quân sự chiếm các đảo, bãi mà Việt Nam đang kiểm soát tại quần đảo Trường Sa. Về mặt chính trị, nếu Trung Quốc áp dụng hành động quân sự quy mô lớn với Việt Nam, sẽ thiêu huỷ hoàn toàn hình tượng “phát triển hoà bình” trong con mắt cộng đồng quốc tế, điều mà Trung Quốc tạo dựng trong gần 20 năm qua. Hành động quân sự của Trung Quốc sẽ làm sự cảnh giác của Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Bản và cả Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) đối với Trung Quốc tăng cao.

Gần đây, hợp tác và trao đổi quân sự giữa Mỹ với ASEAN và Việt Nam đã có những bước tiến lớn, đặc biệt Mỹ vừa tuyên bố nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, nếu Trung Quốc áp dụng hành động quân sự với Việt Nam, các tổ chức quốc tế (kể cả Liên hợp quốc) và khu vực (ASEAN, ASEM…) cũng như chính giới và dư luận, báo chí chính thức của Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác sẽ đứng về phía Việt Nam. Phản ứng quốc tế trước việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam đã chứng minh điều này. Thậm chí, Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản còn cung cấp cho Việt Nam chi viện về tình báo và hậu cần quân sự cho Việt Nam (vừa qua Mỹ, Nhật, Ấn Độ đều đã viện trợ cho Việt Nam để tăng cường lực lượng chấp pháp trên biển). Bên cạnh đó, “Học thuyết quân sự mới” của Ôxtrâylia cho rằng Biển Đông chính là “biên cương lợi ích” của Ôxtrâylia sẽ có cớ phát triển.

Việc Trung Quốc phát động chiến tranh ở Biển Đông sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự thành lập chính thức của tập hợp lực lượng của các nước xung quanh vấn đề Biển Đông theo kiểu “NATO Biển Đông” để chống lại Trung Quốc; bước đi Nam tiến của Lực lượng Phòng vệ trên biển của Nhật Bản cũng sẽ trở thành hiện thực; Mỹ sẽ có căn cứ hợp pháp để can thiệp sâu thêm vào vấn đề Biển Đông, thậm chí can thiệp quân sự. Hơn thế, tại khu vực này, tồn tại “Hiệp ước đồng minh Mỹ – Singapore – Ôxtrâylia” và từ sau năm 1995, Mỹ cùng với 6 nước ASEAN là Philippines, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia và Brunei tổ chức cuộc diễn tập quân sự hàng năm mang tên “Karat”, được mệnh danh là “Tập đoàn Karat” và trên thực tế đã trở thành quan hệ “chuẩn đồng minh”.

Quần đảo Trường Sa hiện nay, có một số đảo nằm sát bờ biển Malaysia, có một số đảo gần đường trung tuyến Việt Nam – Malaysia, cách Trung Quốc xa như vậy, nói là của Trung Quốc thật khó có sức thuyết phục. Do vậy, khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, hình tượng quốc tế của các nước hữu quan, nhất là Việt Nam sẽ tốt hơn nhiều so với Trung Quốc, theo đó các nước lớn Châu Âu, thậm chí cả Mỹ và Ấn Độ sẽ cùng đưa ra đề nghị cung cấp vũ khí cho Việt Nam, khiến cho nhân tố thiên thời và nhân hòa là bất lợi đối với Trung Quốc.

Về mặt quân sự, các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh nêu rõ nhìn bề ngoài, so sánh sức mạnh quân sự Trung Quốc lớn vượt trội so với Việt Nam. Trung Quốc có vũ khí hiện đại mang tính áp đảo, nhất là ưu thế về số lượng và chất lượng tàu mặt nước, tàu ngầm cỡ lớn. Thế nhưng, phân tích sâu về học thuyết địa – quân sự, thực sự bùng nổ chiến tranh trên không và trên biển với Việt Nam, ưu thế sức mạnh quân sự không hẳn nghiêng về Trung Quốc. Bởi vì đặc điểm mới của chiến tranh kỹ thuật công nghệ cao với vũ khí tên lửa là không có khái niệm so sánh sức mạnh của nước mạnh, nước yếu.

So sánh cụ thể hơn, hải quân và không quân của Trung Quốc tham gia cuộc chiến tranh này sẽ chủ yếu là Hạm đội Nam Hải (Bộ Tư lệnh đặt tại Trạm Giang, Quảng Châu). Còn Việt Nam, lực lượng không quân được trang bị máy bay chiến đấu “Su – 30MKV” và “Su – 27SK/UBK”. Hải quân Việt Nam được trang tàu tên lửa tốc độ cao “ Molniya – 12418” và cả tàu ngầm “KILO – 636”. Khi Hải quân Việt Nam đưa tàu ngầm “KILO – 636” vào sử dụng, quyền kiểm soát cục bộ dưới nước có thể sẽ nghiêng về phía Hải quân Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc phải tính đến nhân tố máy bay chiến đấu “Su – 30MKV” của không quân Việt Nam có thể sẽ được trang bị tên lửa siêu âm không đối hạm “BRAHMOS” (của Ấn Độ) và “YAKHONT” (của Nga) với tầm bắn đạt 300 km. Như vậy, so sánh sức mạnh của Trung Quốc ở Biển Đông chưa hẳn đã hơn Việt Nam.

Về năng lực phòng không, Trung Quốc và Việt Nam đều được trang bị tên lửa đất đối không hiện đại “S – 300PMU1”. Lực lượng phòng không của Việt Nam có 2 tiểu đoàn, còn con số này của Trung Quốc là 20. Thế nhưng, lực lượng này (của Trung Quốc) chủ yếu bố trí trên đất liền, do vậy vai trò có thể phát huy trong chiến tranh trên biển và không phận trên biển khá hạn chế.

Về mặt địa lý, toàn bộ các đảo, bãi mà Việt Nam kiểm soát hiện nay ở Trường Sa, cách đất liền từ 400 – 600 km. Tại khu vực này, Việt Nam có các căn cứ không quân tại vịnh Cam Ranh (Nha Trang), Đà Lạt (Lâm Đồng) và ở Thành phố Hồ Chí Minh, đa số không phận tại khu vực tranh chấp này đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay tấn công “Su – 22” của không quân Việt Nam, chưa kể đến máy bay chiến đấu “Su – 30MKV” và “Su – 27SK” với bán kính tác chiến lên đến 1.500 km.

Việt Nam đã xây dựng sân bay tại đảo Trường Sa. Nếu so sánh, không quân Trung Quốc kể cả cất cánh từ sân bay tại đảo Hải Nam, khoảng cách đường thẳng đến các đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát đã lên đến từ 1.200 – 1.300 km, còn cất cánh từ khu vực quần đảo Hoàng Sa, khoảng cách đến Trường Sa cũng lên đến từ 900 – 1.000 km… Điều này buộc máy bay chiến đấu “J – 10” và “J – 8D” và cả “Su – 30MKK” và “Su – 27SK” của Không quân Trung Quốc đều cần được tiếp dầu trên không mới có thể tham chiến. Thời gian tác chiến trên vùng trời Biển Đông của các máy bay Trung Quốc so với máy bay chiến đấu cùng loại của không quân Việt Nam ngắn hơn khoảng 50%.

Khi chiến tranh bùng nổ, sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Hoàng Sa) và thậm chí cả sân bay trên đảo Hải Nam của không quân Trung Quốc đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay chiến đấu “Su – 22” của không quân Việt Nam. Căn cứ Toại Khê, Căn cứ Quế Lâm (Quảng Tây) của Sư đoàn không quân số 2 cũng nằm trong phạm vi bán kính tác chiến tấn công của máy bay chiến đấu “Su – 30MKV” của Không quân Việt Nam. Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác là xung đột không chỉ hạn chế ở khu vực Biển Đông, toàn bộ các mục tiêu chiến lược tại đảo Hải Nam, Hồng Kông, Côn Minh (Vân Nam) và Nam Ninh (Quảng Tây) đều nằm trong phạm vi bán kính tác chiến của máy bay chiến đấu “Su – 30MKV” của Không quân Việt Nam.

Địa hình lãnh thổ của Việt Nam dài hẹp, máy bay “Su – 27SK” và “J – 10A” của Trung Quốc, sau khi tham chiến, trên đường bay trở về căn cứ tại đảo Hải Nam hay căn cứ Toại Khê, Quế Lâm (Quảng Tây), đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay chiến đấu “MiG – 21Bis” của Không quân Việt Nam cất cánh từ các căn cứ không quân miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Do vậy, MiG – 21Bis của Việt Nam có thể cất cánh đánh chặn máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã hết vũ khí và thiếu nhiên liệu vào bất cứ lúc nào.

Về chiến thuật, máy bay chiến đấu “Su – 22” của không quân Việt Nam có thể sẽ áp dụng chiến thuật không kích siêu thấp và có được sự yểm hộ hoả lực trong tấn công đảo, bãi. Vì thế, ngay cả khi Trung Quốc chiếm lĩnh được các đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát hiện nay, bảo vệ lâu dài là vấn đề cực kỳ khó khăn. Ngoài ra, Không quân Việt Nam áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp, sẽ tránh được sự theo dõi của các loại rada trên tàu mặt nước của Trung Quốc và trực tiếp tấn công các tàu mặt nước cỡ lớn của hải quân Trung Quốc.

Hải quân Việt Nam không có tàu mặt nước cỡ lớn, cho nên không ngại Trung Quốc áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp. Điều đó còn khiến cho tàu ngầm hiện đại của Trung Quốc chỉ có thể tấn công tàu vận tải của hải quân Việt Nam, không thể phát huy sức mạnh.

Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, Trung Quốc chưa thể tiến hành một cuộc chiến tranh lớn đối với các đảo, bãi mà Việt Nam đang quản lý. Đây chính là nguyên nhân vì sao Trung Quốc đang tập trung sức lực để lấn biển quy mô lớn, mở rộng các vị trí họ đang chiếm đóng bất hợp pháp tại Trường Sa năm 1988, chuẩn bị cho việc phát động một cuộc chiến quy mô lớn ở Biển Đông. Mục tiêu của Trung Quốc là biến các vị trí này thành những căn cứ quân sự để khắc phục những hạn chế nêu trên của Trung Quốc, tăng cường khả năng tác chiến của hải quân, không quân của Trung Quốc ở Biển Đông. Sau khi hoàn thành việc xây dựng các căn cứ quân sự ở các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng ở Trường Sa, Trung Quốc sẽ đủ năng lực khống chế, kiểm soát toàn bộ Biển Đông theo yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của họ. Hành vi của Trung Quốc sẽ làm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông, làm thay đổi cán cân lực lượng ở Biển Đông có lợi cho Trung Quốc. Điều này không chỉ đe tạo mối dọa các nước láng giềng ven biển của Trung Quốc mà còn gây mối lo ngại chung cho cộng đồng quốc tế chính vì vậy dư luận quốc tế đang lên tiếng phê phán hành vi lấn biển quy mô lớn, xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa.

Trước hành động hiếu chiến của Trung Quốc ở Biển Đông, Mỹ đã chủ động đưa ra sáng kiến kêu gọi các bên “đóng băng” các hành vi có thể gây căng thẳng ở Biển Đông. Sáng kiến này của Mỹ là nhằm vào các hành vi lấn biển quy mô lớn, mở rộng các đảo bãi mà họ đang chiếm đóng ở Trường Sa, ngăn chặn mưu toan của Trung Quốc phá vỡ nguyên trạng ở Biển Đông. Việt Nam cần phối hợp với các nước trong và ngoài khu vực ủng hộ sáng kiến này của Mỹ.

BDN

RELATED ARTICLES

Tin mới