Monday, November 18, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaĐối sách của ASEAN trước mưu đồ độc chiếm Biển Đông của...

Đối sách của ASEAN trước mưu đồ độc chiếm Biển Đông của TQ

Trung Quốc tiến hành phân hóa các nước ASEAN nhằm phân tán sức mạnh đoàn kết của ASEAN. Một khi ASEAN bị chia rẽ, không coi Biển Đông là vấn đề chung của Hiệp hội mà chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với một nước ASEAN thì Trung Quốc có thể dễ đạt được các thoả hiệp có lợi nhất về vấn đề Biển Đông

Trò bẩn của Trung Quốc đối với ASEAN

Trung Quốc tiến hành chia rẽ, phân hóa các nước ASEAN, nhất là chia rẽ ASEAN với Việt Nam, nhằm phân tán sức mạnh đoàn kết của ASEAN. Một khi ASEAN bị chia rẽ, không coi Biển Đông là vấn đề chung của Hiệp hội mà chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với một nước ASEAN thì Trung Quốc có thể dễ đạt được các thoả hiệp có lợi nhất về vấn đề Biển Đông. Nhằm mục tiêu ấy, Trung Quốc đã lợi dụng sự bất đồng về lợi ích, về quan điểm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông của các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền để gây chia rẽ, không để các nước này đoàn kết thành một khối để đối trọng với Trung Quốc; bên cạnh đó, Trung Quốc sử dụng con bài “viện trợ” để các nước này vì lợi ích quốc gia trước mắt mà không ủng hộ các nước ASEAN khác trong “hồ sơ Biển Đông”; chủ trương đàm phán riêng rẽ đối với các nước có liên quan trực tiếp đến tranh chấp ở Biển Đông để đạt lợi ích riêng, tạo nghi ngờ giữa các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng đối với các nước ASEAN khác nhằm tách họ khỏi các vấn đề Biển Đông, tập trung bao vây, cô lập Việt Nam với các nước ASEAN, vì Trung Quốc cho rằng Việt Nam là lực cản lớn nhất đối với chiến lược độc chiếm Biển Đông của họ. Điều đó giải thích vì sao có những nước có quan hệ rất tốt với Việt Nam, nhưng không dám bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, thậm chí coi đây là chuyện riêng giữa Trung Quốc với Việt Nam, giữa Trung Quốc với Phi-líp-pin, hoặc né tránh bày tỏ quan điểm bằng lý do “không can thiệp công việc nội bộ nước khác”.Trung Quốc cũng đưa ra các sáng kiến “Vịnh Bắc Bộ mở rộng” với chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác”, muốn biến Biển Đông thành “con đường tơ lụa trên biển” trong thế kỷ 21, để lôi kéo các nước ASEAN có liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông và chứng tỏ với ASEAN là Trung Quốc muốn giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông,

Không những vậy, Trung Quốc chủ trương đàm phán song phương với từng nước ASEAN, không đàm phán chung với cả Hiệp hội về vấn đề Biển Đông. Chủ trương của Trung Quốc là chủ quyền ở Biển Đông thuộc về Trung Quốc và hạ thấp vai trò, sức mạnh tập thể của ASEAN trong các vấn đề an ninh khu vực, dùng sức mạnh của nước lớn để giải quyết riêng rẽ với từng nước thành viên ASEAN có tranh chấp chủ quyền, qua đó làm tăng vai trò nước lớn của Trung Quốc.Cùng với việc phản đối đàm phán về vấn đề Biển Đông với ASEAN, Trung Quốc đồng thời vô hiệu hóa các nội dung DOC mà hai bên phải mất 12 năm đàm phán mới đi đến ký kết năm 2002. Trung Quốc luôn nói tuân thủ DOC, nhưng thực tế Trung Quốc trắng trợn hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 và điều nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam,đưa các tàu, kể cả tàu chiến và máy bay quân sự chủ động đâm va, dùng vũ lực đối với các lực lượng chấp pháp dân sự, thậm chí đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, đe dọa an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông, bất chấp phản đối của Việt Nam và nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế. Hành động này không chỉ vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc, UNCLOS 1982, mà còn vi phạm DOC mà Trung Quốc là một bên ký kết. Trung Quốc còn công bố một tấm bản đồ “đường 10 đoạn” dựa trên cơ sở “đường 9 đoạn” phi lý, phi pháp, ngang ngược ghi chú các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam hay quần đảo đang tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản vào lãnh thổ của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc tìm lý do trì hoãn bàn và ký kết với ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (COC). Trong khi chưa ký được COC, Trung Quốc đã tự mình từ bỏ DOC.

Trung Quốc vận động để ASEAN không ủng hộ lập trường của Mỹ trong vấn đề Biển Đông và sử dụng vấn đề này nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực. Trung Quốc luôn coi Đông Nam Á là “khu vực ảnh hưởng truyền thống” của mình. Trước việc Mỹ thực hiện chính sách “tái cân bằng” ở khu vực, lấy Biển Đông làm khâu đột phá để làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc, nước này đã tìm cách phản công lại bằng cách quy kết lập trường của Mỹ về Biển Đông chỉ mang lại lợi ích cho Mỹ, không có lợi cho ASEAN.

Trung Quốc cũng ban hành các quy định về vùng đặc quyền kinh tế, cấm các nước khác khảo sát, đo đạc trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc; phản đối hoạt động của các tàu do thám Mỹ, mưu toan đẩy hải quân Mỹ ra khỏi Biển Đông nhằm phá thế bao vây về quân sự của Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc mưu toan dùng quân sự để khống chế các đường hàng hải quốc tế ở Biển Đông nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực và hạn chế khả năng Mỹ can thiệp vào vấn đề Đài Loan khi có tình huống xảy ra. Việc Trung Quốc mới công bố bản đồ “đường 10 đoạn” một lần nữa khẳng định âm mưu độc chiếm Biển Đông, để từ đây Hải quân Trung Quốc tiếp cận Thái Bình Dương, giáp với Mỹ cũng như tiến ra Ấn Độ dương.

Mưu toan “gặm nhấm” Biển Đông bằng sức mạnh

Trung Quốc chủ trương dùng sức mạnh tổng hợp để uy hiếp ASEAN, buộc các nước ASEAN phải nhượng bộ trong vấn đề Biển Đông; chủ trương kiểm soát thực tế trên biển, khiến thế giới phải thừa nhận Biển Đông nằm trong phạm vi lợi ích của Trung Quốc.

Trung Quốc tăng cường đầu tư cho quân sự, quyết tâm thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng (mạnh về Hải quân để trở thành cường quốc biển; chạy đua trên vũ trụ; giành ưu thế về công nghệ thông tin, chiến tranh mạng), tạo ra cục diện có lợi cho Trung Quốc, quyết đoán, mạnh mẽ, sử dụng vũ lực trắng trợn hơn trong khẳng định yêu sách chủ quyền. Kể từ năm 1998 đến nay, Trung Quốc đã tăng ngân sách quốc phòng lên 13 lần, do đó hải quân Trung Quốc đã thành hải quân hùng mạnh nhất châu Á. Việc các lực lượng hải quân, không quân, chấp pháp biển của Trung Quốc liên tục mở rộng phạm vi, cường độ hoạt động tại các vùng biển tranh chấp và tư duy sẵn sàng sử dụng vũ lực của Trung Quốc, nhất là sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, đang làm gia tăng nguy cơ va chạm với các nước. Hải quân và kiểm ngư Trung Quốc tăng cường hoạt động ở khu vực “đường 10 đoạn” để gây sức ép với các nước ASEAN, tạo sự lo ngại va chạm của các nước có liên quan để các nước này không dám phản đối Trung Quốc. Nước này đã sử dụng các tàu thăm dò, tàu đánh cá hoạt động ở những vùng tranh chấp và tiến hành các biện pháp nhằm dân sự hóa sự hiện diện của họ.

Song song với việc áp đặt chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, ngang nhiên đưa nhiều tàu đánh cá vào hoạt động ở ngư trường truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc còn phái một đoàn tàu đánh cá đến Trường Sa. Khi dựa trên một đoàn tàu “dân sự” ngày càng hùng mạnh của Cục Quản lý Đại dương hay của cơ quan Ngư chính, với tàu thuyền được trang bị vũ khí nặng, Trung Quốc đang dùng chính sách “sự đã rồi” để áp đặt chủ quyền của họ. Năm 2010, Trung Quốc đã nâng Biển Đông lên hàng lợi ích cốt lõi, ngang hàng với Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương, điều này có nghĩa là Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào.

Chưa hết, Trung Quốc trắng trợn san lấp biển, mở rộng đảo tại 5 đảo, bãi đá ở Biển Đông, tiến hành quân sự hóa các thực thể đang chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa, biến chúng thành căn cứ quân sự kiên cố trên biển. Tại Đá Chữ Thập, Trung Quốc cải tạo mở rộng đá Chữ Thập thành đảo nhân tạo lớn nhất quần đảo Trường Sa với diện tích khoảng 2,74 km2 (7/2015), xây dựng trên đá Chữ Thập 9 cầu tàu, 2 bãi đáp trực thăng, 10 ăng ten liên lạc qua vệ tinh và một trạm radar. Đặc biệt là việc xây dựng một đường băng dài 3.125m và rộng 60m, đây là đường băng duy nhất đủ lớn cho máy bay ném bom chiến lược tại Trường Sa, cho phép quân đội Trung Quốc bao quát không phận rộng lớn từ Tây Thái Bình Dương gồm cả Guam (nơi có các căn cứ Mỹ) đến Ấn Độ Dương. Tại Đá Vành Khăn, Trung Quốc bắt xây một đường băng trên đá này và đến tháng 7/2016 thì một đường băng dài 2.644m, rộng 55m này đã hoàn thành. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã xây dựng ngọn hải đăng, kho bãi, các mái che radar, tháp truyền tín hiệu viễn thông, cảng vận chuyển quy mô lớn… Tại Đá Gạc Ma, Trung Quốc đã tiến hành đào đắp đất cát để xây đường băng tại đây, trên bãi đá chỉ có một nền bê tông nhỏ với một cơ sở liên lạc, cầu cảng và một đơn vị đồn trú. Trung Quốc đã hoàn thiện cải tạo phi pháp đá Gạc Ma và đưa vào sử dụng trái phép nhiều hạng mục công trình như: Tòa nhà kiên cố cao 26 – 27m gồm 8 tầng, tại 4 góc nhà đều bố trí các lỗ châu mai – lỗ bắn. Trên nóc nhà bố trí 2 ra đa hàng hải, 2 ăng ten parabol và 1 thiết bị đảm bảo bay có quả cầu che, cùng một số thiết bị thông tin liên lạc khác. Trên tầng 6 của tòa nhà, phía Trung Quốc lắp radar điều khiển hỏa lực, hệ thống kính ngắm quang học hiện đại. Tầng 5 của tòa nhà được lắp 2 bệ pháo 30mm (7 nòng) và tầng 1 lắp 2 bệ pháo 76mm. Ngoài hệ thống súng pháo trên nhà 8 tầng, còn có 1 vị trí hỏa lực lắp đặt pháo 76mm, pháo 30mm quay hướng Đông Bắc luôn có quân nhân trực canh 24/24 trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và họ chỉ chui ra khỏi bệ pháo khi đổi ca trực. Ngoai ra, còn có các công trình khác trên bãi Gạc Ma như: 2 tháp radar đối không – đảm bảo bay cho máy bay, 1 tháp viễn thông thu phát sóng 4G cao khoảng 50m, 2 cột điện gió cùng hệ thống pin năng lượng mặt trời, 1 ngọn hải đăng cao 50m, bán kính chiếu xa khoảng 40 km… Bên cạnh đó, Trung Quốc còn nạo vét luồng rạch theo hướng Bắc – Nam với chiều dài 900 – 1.000m, rộng khoảng 250 – 400m thuận tiện cho các tàu trọng tải 4.000 tấn ra vào âu tàu phía trong bãi và cập cảng phía Bắc đá Gạc Ma. Tại Đá Subi, Trung Quốc đã xây kênh tiếp cận, cầu cảng, các thiết bị thông tin liên lạc, radar, đê chắn sóng gia cố, bãi đáp trực thăng, cơ sở quận sự và có thể xây một đường băng dài 3.000m. Tại Đá Tư Nghĩa, Trung Quốc cải tạo khoảng 9,5 ha bao gồm nhà kiên cố 8 tầng cao khoảng 26 – 27m, tại 4 góc nhà của các tầng đều bố trí lỗ bắn. Trên nóc bố trí 2 radar hàng hải và 2 ăngten parabol, 1 thiết bị có quả cầu che và các thiết bị thông tin liên lạc, quan sát. Ở tầng 6 của tòa nhà lắp rada điều khiển hỏa lực, kính ngắm quang học, còn tầng 5 lắp 4 bệ pháo 30 mm (7 nòng), tầng 1 lắp 4 bệ pháo 76 mm… Ngoài ra, vị trí hỏa lực lắp đặt pháo 76 mm, pháo 30 mm quay hướng Đông; tháp viễn thông thu phát sóng 4G cao khoảng 50 m; bãi đáp trực thăng, cầu cảng hướng Đông – Tây dài khoảng 80 – 100 m. Tại Đá Châu Viên, Trung Quốc hiện đã cải tạo phi pháp và mở rộng diện tích phần đất nhân tạo trên bãi đá Châu Viên lên đến 119.711 m2. Những công trình xuất hiện tại đây gồm kênh tiếp cận, đê chắn sóng, bãi đáp trực thăng, các tòa nhà hỗ trợ, cơ sở quân sự, ăng ten liên lạc vệ tinh, radar, hải đăng… Tại Đá Gaven, Trung Quốc đã cải tạo, mở rộng trái phép diện tích 114.000 m2 trên đá Gaven. Bãi đá này có kênh tiếp cận, súng phòng không, súng hải quân, thiết bị liên lạc, kiến trúc hỗ trợ xây dựng, tháp phòng thủ, cơ sở quân sự, bãi đáp trực thăng và đê chắn sóng.

Biện pháp đối phó của ASEAN

Việc Trung Quốc vi phạm UNCLOS 1982, vi phạm DOC, trì hoãn đàm phán thực chất COC, trắng trợn hạ đặt giàn khoan vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, phớt lờ phản ứng của cộng đồng quốc tế…, báo hiệu một tương lai khó xác định về hiện thực hóa và tính màu nhiệm của COC. Các nước ASEAN (và cộng đồng quốc tế) cần nhận rõ những thủ đoạn trên, để tìm ra những biện pháp hiệu quả ngăn cản chiến lược của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. ASEAN cần và có thể thực hiện một số biện pháp sau để hạn chế tham vọng của Trung Quốc:

Hơn lúc nào hết, ASEAN cần có nhận thức đi cùng một quyết tâm và trách nhiệm chính trị cao hơn. Trong số các nước có yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông, thì bốn nước ASEAN có tranh chấp trực tiếp tại vùng biển này. Các nước khác như Indoneisa, Singapore, Thái Lan và Campuchia là những nước nằm ven bờ Biển Đông, đều chia sẻ lợi ích chiến lược to lớn, cả kinh tế, tự do thương mại, lẫn an ninh và quốc phòng. Tuy Myanmar không nằm trên bờ Biển Đông, nhưng Biển Đông là con đường thông thương hàng hải thuận lợi nhất cho nước này trong phát triển quan hệ với các nước ven bờ Thái Bình Dương, khi tuyến Hành lang Kinh tế Đông – Tây thuộc Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng trở nên thuận tiện, thì lợi ích của Myanmar sẽ được nhân lên nhiều lần. Tuy không có biển, nhưng Lào cũng được hưởng lợi lớn khi sử dụng giao thông hàng hải cũng như được tham gia đánh bắt lượng hải sản dư thừa sau khi Việt Nam hoàn thành tính toán nhu cầu, mức độ, khả năng đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam ở Biển Đông. Do vậy, một khi tranh chấp Biển Đông leo thang không chỉ đe dọa lợi ích quốc gia – dân tộc của các nước ASEAN ven bờ, mà còn làm xấu đi môi trường hợp tác và phát triển của toàn khối, nhất là quan hệ của ASEAN và các nước thành viên với các đối tác bên ngoài, trước hết là với Trung Quốc, Nhật Bản… Các nước Đông Nam Á, nhất là các nước có yêu sách chủ quyền, dù muốn hay không, đều phải dành ngân sách nhiều hơn cho chi phí quốc phòng, làm gia tăng cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực. Điều đó không chỉ làm tổn hại đến đầu tư phát triển kinh tế, mà còn làm tăng nghi kỵ về an ninh.

Hơn nữa, việc tham gia ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông còn giúp ASEAN duy trì và củng cố vai trò trung tâm, động lực thúc đẩy, kết nối, kiến tạo các cơ chế hợp tác đa phương ở châu Á – Thái Bình Dương, nhất là vai trò của ASEAN trong Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN và các nước đối tác (ADMM+). Điều đó làm tăng sức đề kháng của ASEAN và các nước thành viên trước sức ép gia tăng về địa – chính trị do cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và Trung Quốc; đồng thời làm tăng sức hấp dẫn và tính hiệu quả của ASEAN và các nước thành viên trong việc mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài, đưa vị thế của ASEAN lên tầm cao mới, củng cố vị thế của ASEAN như là một nhân tố không thể thiếu trong kiến tạo môi trường hòa bình, cũng như các cơ chế hợp tác đa phương đã và đang hình thành ở khu vực. Như vậy, việc ASEAN tham gia giải quyết mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông đạt được ba mục đích: Góp phần hiện thực hóa APSC; hạn chế ASEAN và các nước thành viên rơi vào vòng xoáy cạnh tranh địa – chính trị của các nước lớn, duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang hình thành và góp phần giảm thiểu thế độc quyền chiến lược của một số nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc, ở khu vực này, làm tăng phần hợp tác, chia sẻ lợi ích giữa họ và giữa họ với các nước ASEAN. Kết quả đó đã và sẽ góp phần củng cố môi trường hợp tác và an ninh khu vực, trong đó chủ quyền quốc gia – dân tộc của các thành viên ASEAN sẽ được tôn trọng. Như vậy, có thể nói, việc ASEAN tham gia giải quyết mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là lợi ích chiến lược của tổ chức này cũng như của mỗi quốc gia thành viên. Đây cũng là một trong những phép thử đối với hiện thực hóa APSC.

Không những vậy, ASEAN cần sớm hoàn chỉnh cơ chế ra quyết định những vấn đề trọng yếu. Nếu nguyên tắc đồng thuận) phát huy tác dụng từ ngày ASEAN ra đời tới nay, thì gần đây nguyên tắc này đã bộc lộ những hạn chế, làm giảm tính tập trung, thống nhất mạnh mẽ cần có của Hiệp hội. ASEAN cần dũng cảm điều chỉnh nguyên tắc “concensus” khi ra quyết định tập thể, coi đây là một trong những điểm mấu chốt, quan trọng nhất để ASEAN đạt được thống nhất nội bộ trước khi giải quyết tranh chấp.Đồng thời cần nghiên cứu áp dụng bổ sung cơ chế đảm bảo thống nhất, phát huy trách nhiệm và kế thừa liên tục chính sách chung của ASEAN qua các nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN theo kiểu “troika”. Hai nội dung cần đổi mới trên đây trước hết cần thiết cho các phương án đấu tranh về Biển Đông nói riêng cũng như cho việc xây dựng Cộng đồng ASEAN nói chung.

ASEAN cũng cần đẩy mạnh“quốc tế hóa” tự do, an ninh hàng hải, hàng không trên Biển Đông . Trong bối cảnh hiện nay, ASEAN cần chủ động đưa ra các sáng kiến mới, tạo dựng các cơ chế, hình thức hợp tác hòa bình mới. Việc đảm bảo tự do, an toàn, an ninh hàng hải, hàng không cho tất cả các nước có lợi ích ở Biển Đông sẽ cho phép các quốc gia thành viên ASEAN thúc đẩy “quốc tế hóa” vấn đề này. Hiện nay, không ít quốc gia ngoài khu vực quan tâm đến tự do, an ninh hàng hải và hàng không. ASEAN cần chọn chủ đề “tự do an ninh hàng hải, hàng không” ở Biển Đông là khâu đột phá. Đây cũng là điều Trung Quốc lâu nay né tránh, nên rất ít khả năng Trung Quốc tham gia đàm phán. Bốn nước (Việt Nam, Phihlippines, Malaysia và Brunei) nói riêng và khối ASEAN nói chung có thể mời các quốc gia có lợi ích liên quan đến an toàn hàng hải, hàng không ở khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia… tham gia đàm phán đa phương, tiến tới xây dựng một Thỏa thuận (hoặc Hiệp định) về đảm bảo an ninh hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Thỏa thuận (hoặc Hiệp định) này để ngỏ (mở) cho tất cả các nước trong và ngoài khu vực tham gia. Điều đó sẽ tạo tiền lệ quan trọng, làm cho Trung Quốc không thể đứng bên lề các cuộc đàm phán cũng như điều ước quốc tế này nếu Trung Quốc nghiêm túc mong muốn giải quyết các tranh chấp. Như vậy, bằng cách đàm phán, ký điều ước quốc tế đa phương về các giải pháp đảm bảo tự do, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông, ASEAN và các nước Việt Nam, Phihlippines, Malaysia và Bruneicó thể tạo tiền đề, xác lập các điều khoản cho cuộc đàm phán đa phương tương lai với Trung Quốc.

Các nước ASEAN cần sẵn sàng giải quyết tranh chấp bằng công cụ pháp lý quốc tế. Trung Quốc luôn né tránh việc giải quyết vấn đề bằng luật pháp quốc tế, vì nước này chủ trương giải quyết tranh chấp Biển Đông theo con đường song phương, loại trừ việc tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào khác. Đây là “điểm yếu” của Trung Quốc mà ASEAN cần triệt để khai thác.Sử dụng công cụ pháp lý hiệu quả sẽ mở ra khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp, hoặc chí ít hạn chế các hành động gây hấn, các tuyên bố yêu sách vô lý không tuân thủ UNCLOS 1982. Do vậy, không chỉ “quốc tế hóa” vấn đề an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông, ASEAN (ít nhất là các nước có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc) không nên ngần ngại đưa tranh chấp ra Tòa án quốc tế về Luật Biển (ITLOS), Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), hoặc Tòa Trọng tài thường trực (PCA) theo Phụ lục VII của UNCLOS 1982 (tùy thái độ của Trung Quốc), bởi không ít vùng biển tranh chấp trên thế giới không phân định được qua đàm phán, cuối cùng phải nhờ đến phán quyết của Tòa án, từ đó mới có ổn định bền vững.

Ngoài ra, ASEAN cần tích cực đưa vấn đề Biển Đông ra các hội nghị, diễn đàn đa phương, song phương. Tại các diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Đối thoại Shangri-La…, nhiều tiếng nói ủng hộ lập trường “quốc tế hóa”, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và tự do hàng hải tại Biển Đông. ASEAN cần tiếp tục sử dụng các diễn đàn này để buộc các bên liên quan tìm kiếm giải pháp duy trì hòa bình, qua đó đẩy mạnh “quốc tế hóa” phương cách giải quyết tranh chấp; đẩy mạnh truyền thông về vấn đề Biển Đông theo hướng vì lợi ích của cộng đồng khu vực. Đây chính là sự kết hợp sức mạnh của thời đại với sức mạnh của Hiệp hội để giải quyết vấn đề liên quan tới lợi ích chiến lược của ASEAN. Bên cạnh đó, ASEAN cần cùng Trung Quốc đàm phán, ký kết về COC sớm chừng nào hay chừng ấy. Chúng ta thiếu cơ sở để kỳ vọng vào sự nhiệm màu của COC, nhưng cần kiên trì đấu tranh tìm mọi giải pháp, dù là nhỏ nhất, giải quyết tranh chấp ở Biển Đông trước khi quá muộn.

Nhìn chung, với vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam cần chủ động cùng một số thành viên chủ chốt phát huy vai trò trong ASEAN, đưa ra các sáng kiến củng cố đoàn kết, thống nhất nội khối, cũng như phối hợp thực hiện các bước đi đàm phán đa phương. Bên cạnh đó, Việt Nam kiên trì và kiên quyết phản đối yêu sách “đường 9 đoạn”, “đường 10 đoạn” của Trung Quốc, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, không để xảy ra xung đột; cũng như cảnh giác phòng ngừa các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để kích động tinh thần dân tộc cực đoan, thậm chí có những hành động làm tổn hại lợi ích đất nước; đồng thời, cần chủ động hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý về chủ quyền biển, đảo để bày tỏ quan điểm khi cần thiết.

RELATED ARTICLES

Tin mới