Tuesday, May 7, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNgư dân Indonesia bắt được thiết bị lặn tự động của TQ...

Ngư dân Indonesia bắt được thiết bị lặn tự động của TQ ở Biển Đông

Các ngư dân Indonesia đã bắt được một vật thể lạ dưới biển có nhận dạng bên ngoài giống với thiết bị lặn không người lái Haiyi-7000 thuộc sở hữu của Hải quân Trung Quốc.

Hai ngư lôi của TQ do người dân Indonesia va VN phát hiện. Nguồn: RT

Truyền thông Nga ngày 25/3 cho biết các ngư dân Indonesia đã bắt được một vật thể lạ dưới biển có nhận dạng bên ngoài giống với thiết bị lặn không người lái Haiyi-7000 thuộc sở hữu của Hải quân Trung Quốc.Thiết bị này được các ngư dân trên đảo Bintan phát hiện ngày 23/3 và sau đó đã bàn giao cho cảnh sát Indonesia.Theo chuyên gia Nga, thiết bị lặn không người lái Haiyi-7000 do Viện nghiên cứu tự động hóa Thiên Tân chế tạo và bàn giao cho Hải quân Trung Quốc sử dụng.Nhiệm vụ của thiết bị này là nghiên cứu thềm lục địa đáy biển và giám sát các khu vực được chỉ định nhằm kiểm soát tàu ngầm đối phương đột nhập.

Trong quá trình thử nghiệm vào tháng 12/2016, thiết bị lặn Haiyi-7000 đạt đến độ sâu 5.751 m. Tháng 3/2017 thiết bị này lập kỷ lục về tầm hoạt động ở độ sâu 6.326 m, vượt qua kỷ lục 6.000 m do tàu lặn không người lái của Mỹ thiết lập trước đó. Haiyi-7000 có tầm hoạt động khoảng 1000km trên biển trong vòng 30 ngày. Tháng 8/2017, Hải quân Trung Quốc thử nghiệm hoạt động trên biển 1 tháng với 12 thiết bị lặn Haiyi-7000 với chiêu bài giám sát các điều kiện tự nhiên trên biển. Tuy nhiên, phía Trung Quốc không công bố kết quả của hoạt động này. Theo nhận định của các chuyên gia Nga, thiết bị mà ngư dân Indonesia thu được có thể là một trong số 12 thiết bị nêu trên của Trung Quốc đã bị thất lạc.

Trước đó hôm 19/12/2019, ngư dân Việt Nam cũng đã phát hiện một ngư lôi huấn luyện của hải quân Trung Quốc trôi dạt gần bờ biển tỉnh Phú Yên. Đây là mô hình của loại ngư lôi hạng nặng Yu-10. Yu-10 là loại ngư lôi tiên tiến nhất, bí ẩn nhất của Trung Quốc hiện có, nghe nói được điều khiển bằng cáp quang, sử dụng kỹ thuật động lực nhiệt và kỹ thuật tự dẫn. Nếu bị khóa thì mục tiêu khó thoát khỏi bị bắn trúng. Có tin, tỷ lệ bắn trúng mục tiêu của Yu-10 tới 99%, theo báo chí Trung Quốc đưa tin sau đó.

Kể từ những năm 1950, Liên Xô đã từng giúp đỡ để Trung Quốc sản xuất những mẫu ngư lôi “made in China” đầu tiên. Tuy nhiên sau cuộc xung đột biên giới Xô-Trung, các kỹ sư Trung Quốc phải tự tìm cách hoàn thiện nốt các mẫu ngư lôi còn dang dở. Bước ngoặt đối với quá trình phát triển ngư lôi ở Trung Quốc đến vào năm 1978 sau khi một ngư dân nước này mò được một quả ngư lôi Mk 46 Mod 1 của Mỹ trên Biển Đông. Từ quả ngư lôi này, Trung Quốc tháo dỡ, nghiên cứu tỉ mỉ từng thông số kỹ thuật trước khi sản xuất các mẫu ngư lôi của mới nhưng mang đậm tính “kế thừa” và lai tạo từ các thiết kế của nước ngoài.

Theo Hiệp ước hữu nghị năm 1950, Liên Xô đồng ý chuyển giao công nghệ ngư lôi và một số mẫu cho Trung Quốc để Bắc Kinh nghiên cứu và sản xuất mẫu ngư lôi của riêng mình. Các kỹ thuật viên và kỹ sư giàu kinh nghiệm đã được tuyển dụng từ khắp đất nước để tham gia phát triển Yu-1, ngư lôi đầu tiên được Trung Quốc chế tạo và là bản sao của ngư lôi không dẫn đường Type 53-51 của Liên Xô. Tất cả các thiết kế của Yu-1 được hoàn tất vào tháng 3/1966. Nhưng sau nhiều lỗi gặp phải trong quá trình thử nghiệm, các kỹ sư nghiên cứu phải mất thêm 5 năm để giải quyết các vấn đề trước khi đưa Yu-1 vào biên chế năm 1971. Yu-1 được thiết kế để phóng từ tàu ngầm Type 033 (lớp Romeo) và tàu tấn công nhanh ngư lôi Type 25 (lớp Huchuan). Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng, Yu-1 trở nên lỗi thời và bị loại biên. Yu-1A là phiên bản cải tiến sử dụng đầu dò thụ động và hiện vẫn có tên trong biên chế của hải quân Trung Quốc. Yu-3 là ngư lôi đầu tiên Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đưa sử dụng cho kế hoạch tác chiến chống ngầm của nước này nằm trong chương trình phát triển cho hạm đội tàu ngầm hạt nhân. Nó được phóng từ tàu ngầm để đeo bắt các mục tiêu trên mặt nước. Yu-3 được thiết kế vào năm 1964, bắt đầu thử nghiệm trên biển vào năm 1972 và đưa vào sản xuất hàng loạt năm 1984. Hầu hết công nghệ và thiết kế của nó đều do Trung Quốc nghiên cứu và phát triển, nhưng cũng có thông tin cho rằng các Yu-3 được “lấy cảm hứng” từ ngư lôi SET-65E của Liên Xô. Yu-4 được coi là ngư lôi săn ngầm đầu tiên phóng từ tàu ngầm của hải quân Trung Quốc. Ban đầu, Liên Xô đạt được thỏa thuận chuyển giao công nghệ chế tạo ngư lôi điện dựa trên mẫu ngư lôi SAET-50 cho Trung Quốc năm 1958. Nhưng sau khi chiến tranh Xô-Trung nổ ra, thỏa thuận này bị hủy bỏ và các kỹ sư Trung Quốc buộc phải mày mò để hoàn thiện nốt phần còn lại nhưng quá trình này gặp không ít khó khăn. Mãi cho tới năm 1971, 5 mẫu Yu-4 mới được ra mắt nhưng lại bị chê thậm tệ vì độ ồn quá lớn cùng một số nhược điểm khác. Tới năm 1984, Yu-4A với đầu dò thụ động và Yu-4B với đầu dò cả thụ động và chủ động được đưa vào biên chế. Yu-4B đạt tốc độ 75 km/h, tầm hoạt động 15 km, đầu đạn nặng 220 kg.

Yu-6 là mẫu ngư lôi phóng từ tàu ngầm mới nhất của Trung Quốc, được sử dụng cho cả nhiệm vụ săn ngầm và săn tàu mặt nước. Yu-6 được cải thiện đáng kể về công nghệ tìm kiếm cũng như tốc độ. Hơn 2/3 thiết kế của Yu-6 đều được áp dụng công nghệ mới. Tương tự như Yu-5, Yu-6 được trang bị công nghệ Otto Fuel II, nhưng có thêm bộ vi xử lý Intel 80468 cho đầu dò. Loại vỏ sử dụng cho Yu-6 cũng được nâng cấp hơn, được làm bằng một loại vật liệu tổng hợp mới. Quá trình phát triển Yu-6 được hoàn tất vào năm 2005. Yu-6 đạt tốc độ 120 km/h, nhanh hơn mẫu Mark 48 Mod 6 ADCAP của Mỹ. Nhưng mẫu ngư lôi của Trung Quốc lại thua kém Mark 48 Mod 6 hoặc Mod 7 CBASS của Mỹ về các tính năng tự vệ. Kế hoạch phát triển Yu-7 với nhiệm vụ chống ngầm được bắt đầu từ những năm 1980. Chương trình này dựa trên các thiết kế của 40 ngư lôi A244/S mua lại của Ý vào năm 1987 và quả ngư lôi Mark 46 Mod 1 của Mỹ được ngư dân Trung Quốc vớt từ Biển Đông năm 1978. Yu-7 ban đầu được trang bị động cơ điện, nhưng do hiệu suất không đạt yêu cầu, các kỹ sư Trung Quốc phải thiết kế lại và đưa công nghệ Otto Fuel II vào dòng ngư lôi này. Đến năm 1989, Yu-7 thực hiện thành công 68 lần phóng trong 4 lần thử nghiệm trên biển. Tới cuối những năm 1990, dòng ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ này bắt đầu được trang bị cho các tàu chiến lớn của hải quân Trung Quốc như một hệ thống tác chiến chống ngầm tiêu chuẩn.

Năm 1990, Nga chuyển giao cho Hải quân Trung Quốc một số lượng không xác định ngư lôi 53-65KE cùng 4 tàu ngầm lớp Kilo. Kể từ đó, nhiều mẫu ngư lôi này tiếp tục được Trung Quốc hỏi mua để trang bị thêm cho 8 tàu ngầm lớp Kilo đặt hàng vào năm 2002. 53-65KE sử dụng động cơ đẩy tua bin với nhiên liệu dầu hỏa trộn hiđrô. Thay vì dò tìm sóng âm chủ động hay thụ động thì loại ngư lôi này được thiết kế để dò tìm sóng chấn động áp lực tạo ra bởi các con tàu đang di chuyển trên mặt nước. Năm 1987, hải quân Trung Quốc mua một số bệ phóng ngư lôi B.515S và 40 ngư lôi chống ngầm A.244S từ Công ty công nghệ quốc phòng Alenia của Italia để trang bị cho tàu khu trục tên lửa Type 051 lớp Luda. Một trong số các ngư lôi này được gửi tớ Viện 507 để “chế tạo ngược” thành một mẫu ngư lôi của Trung Quốc có tên ET52, nhưng không rõ điều này có được thông báo tới Alenia hay không. ET52 là ngư lôi hạng nhẹ, trang bị động cơ điện được thiết kế để phóng từ các ống phóng ngư lôi trên tàu mặt nước và trực thăng. Nó có thể đeo bám tàu ngầm đối phương ở các vùng nước nông. Hệ thống dẫn đường và đầu đạn của ET52 được bố trí ở phía trước, pin ở giữa còn hệ thống đẩy ở phần sau.

RELATED ARTICLES

Tin mới