Wednesday, May 1, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaThực trạng và triển vọng hợp tác giữa các nước ASEAN trong...

Thực trạng và triển vọng hợp tác giữa các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông

Khu vực Biển Đông đang tồn tại nhiều bất đồng mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia do lịch sử để lại. Tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông đang có nhiều diễn biến phức tạp cả trên thực địa cũng như trong các diễn đàn ngoại giao song phương và đa phương. Do đó, hợp tác quốc tế ở Biển Đông giữa các quốc gia ASEAN trong bối cảnh hiện nay đã trở thành nhu cầu cấp thiết đối với tất cả các nước trong khu vực.

Trong bối cảnh hiện nay, các nước thành viên ASEAN đang đẩy nhanh hợp tác quốc tế trên biển, trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: hợp tác tuần tra chung trên biển, hợp tác khai thác chung nguồn tài nguyên biển trên vùng biển chồng lấn, hợp tác quốc tế về phân định biển, giao lưu trao đổi, chia sẻ thông tin trên biển giữa các lực lượng chuyên trách trên biển của các nước thành viên ASEAN, hợp tác chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển.

Về hợp tác tuần tra chung trên biển giữa các nước ASEAN

Biển Đông là khu vực có nhiều tuyến đường hàng hải quốc tế đi qua, là vùng biển có nhiều hoạt động thương mại nhộn nhịp đứng thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau vùng biển Địa Trung Hải. Tuy nhiên, vùng biển này tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định do nạn cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển vẫn diễn ra thường xuyên, trong khi tranh chấp chủ quyền biển đảo có chiều hướng diễn biến phức tạp. Thực tế cho thấy, trước thập kỷ 80 của thế kỷ XX, các biện pháp xây dựng lòng tin hầu như không được đề cập đến, nhất là giữa các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển. Cụ thể, các hoạt động tuần tra chung chưa được thảo luận rộng rãi, không có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia hữu quan ở Biển Đông. Hiện nay, lực lượng chuyên trách trên biển của các quốc gia hữu quan trong khu vực đã và đang tiến hành hợp tác tuần tra chung trên biển từng bước đạt hiệu quả. Với những hành động tuần tra chung giữa lực lượng hải quân, cảnh sát biển của các nước trong khu vực Biển Đông, nhất là giữa các nước thành viên ASEAN đang ngày càng được đề cao, và được xem là một trong những biện pháp quan trọng về xây dựng lòng tin góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và ổn định trên biển.

Đáng chú ý, nguy hiểm vẫn rình rập ở vùng biển của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á do tình hình cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ngày càng có dấu hiệu phức tạp. Với diện tích rộng lớn và hệ thống an ninh được cho là còn mỏng, vùng biển này đang trở thành điểm nóng số một của thế giới về vấn nạn cướp biển và cướp có vũ trang. Đây là nơi xảy ra 41% các vụ cướp biển tấn công trên toàn cầu trong giai đoạn 1995 – 2013, gây thiệt hại tới mức 8,4 tỷ USD mỗi năm. Theo thống kê của Cục Hàng hải quốc tế, quý I năm 2015, trên thế giới có 54 vụ cướp biển, trong đó hơn một nửa số vụ tập trung ở Đông Nam Á. Indonesia là quốc gia có số vụ bị cướp biển tấn công nhiều nhất, với gần 40% tổng số các vụ.

Do tình hình an ninh ở Biển Đông có chiều hướng phức tạp như phân tích ở trên, chính vì vậy các quốc gia thành viên ASEAN trong thời gian qua đã đẩy nhanh tiến trình hợp tác tuần tra chung trên biển. Cụ thể từ năm 1998 Việt Nam đã thực hiện tuần tra chung trên biển với Thái Lan giữa lực lượng hải quân Việt Nam với lực lượng hải quân Hoàng gia Thái Lan. Cho đến nay hai nước vẫn thường xuyên duy trì hoạt động tuần tra chung trên biển của lực lượng chuyên trách. Thông qua hoạt động tuần tra chung trên biển đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên vũng biển giáp ranh của hai nước, qua đó tạo điều kiện cho ngư dân hai nước khai thác nguồn tài nguyên hải sản trên biển. Mặt khác, thông qua những chuyến tuần tra chung trên biển của các lực lượng chức năng đã góp phần xây dựng lòng tin, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ thông tin để cùng nhau quản lý tốt vùng biển trong vịnh Thái Lan. Ngoài Thái Lan, Việt Nam và Campuchia vẫn thường xuyên tổ chức hoạt động tuần tra chung trên biển giữa lực lượng chuyên trách của hai nước, qua đó góp phần duy trì an ninh và trật tự ở vùng biển giáp ranh của hai nước. Không những vậy, tuần tra chung trên biển giữa các nước Indonesia, Malaysia, Philippines đã tiến hành diễn tập và tuần tra chung tại biển Sulu, phía Đông Nam Biển Đông, đánh dấu việc 3 nước bắt đầu các cuộc tuần tra chung nhằm tăng cường an ninh tại vùng biển thường xuyên bị lực lượng nổi dậy và cướp biển hoành hành này.

Nhìn tổng thể, hoạt động tuần tra chung được tổ chức thường niên giữa các nước ASEAN góp phần đảm bảo an toàn hàng hải đồng thời giảm bớt nguy cơ xung đột tiềm tàng ở Biển Đông. Hợp tác tuần tra chung là hành động thiết thực của các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển giữa các quốc gia ở Biển Đông trong thời gian vừa qua, biện pháp này đã được một số quốc gia thiện chí phối hợp. Trong khi tranh chấp chủ quyền biển đảo chưa được giải quyết một cách triệt để, hợp tác tuần tra chung trên biển được xem là biện pháp xây dựng lòng tin hữu hiệu ở Biển Đông và thực tế cho thấy biện pháp này đã dần dần trở thành nhu cầu cấp thiết góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và ổn định. Thực tiễn cho thấy các chuyến tuần tra chung góp phần thúc đẩy gìn giữ môi trường biển hòa bình, ổn định, qua đó góp phần răn đe những âm mưu và hành động của cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ở khu vực Biển Đông.

Hợp tác phát triển chung nguồn tài nguyên biển

Hợp tác khai thác chung chỉ có thể được tiến hành trên vùng biển có sự chồng lấn thực theo quy định của UNCLOS. Biển Đông vừa là nơi có lợi ích chung, vừa là nơi có vùng biển đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán riêng của các quốc gia trong khu vực. Chính vì vậy, việc tăng cường khả năng hợp tác cùng phát triển trên một số lĩnh vực ít nhạy cảm ở vùng biển có sự chồng lấn thực sự chiếu theo quy định của UNCLOS là nhu cầu cấp thiết đối với các bên liên quan. Thông qua biện pháp hợp tác cùng nhau khai thác nguồn tài nguyên biển sẽ góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên để tăng cường biện pháp xây dựng lòng tin, các bên cần xác định rõ việc khai thác chung chỉ diễn ra ở vùng biển có sự chồng lấn thực sự, mà ở đó các bên chưa ký kết hiệp định về phân định biển. Việc phân định chính xác quyền sở hữu và xác định quy chế pháp lý vùng biển của các cấu trúc địa lý như đảo đá, bãi chìm, bãi cạn và các nguồn tài nguyên duới đáy biển trên cơ sở của UNCLOS là vấn đề cấp thiết.

Thực tiễn cho thấy, cần phải có những giải pháp chung mang tính chia sẻ và có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia hữu quan, đây được xem là cơ sở hình thành quan điểm hợp tác khai thác chung ở Biển Đông trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng để góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định. Từ kinh nghiệm lịch sử, mô hình hợp tác khai thác chung diễn ra ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới trong khi vấn đề chủ quyền chưa được giải quyết dứt điểm. Do đó, khai thác chung không phải là ý tưởng mới trong xử lý các tranh chấp biển trên thế giới.

Trên thực tế, vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng biển chồng lấn trên thềm lục địa của hai nước rộng khoảng 2.800 km2. Khu vực này nằm ở cửa vịnh Thái Lan có độ sâu thấp, trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương đối bằng phẳng. Hai nước Việt Nam và Malaysia đều là thành viên của UNCLOS, cho nên nguyên tắc chung để giải quyết phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là nguyên tắc công bằng đã được ghi nhận trong các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS. Trước yêu cầu của thực tế, hai bên đã tuần tự đàm phán, thu hẹp những bất đồng, nhằm tìm ra giải pháp công bằng mà hai bên có thể chấp nhận. Do đều là thành viên của UNCLOS, Việt Nam và Malaysia chấp nhận áp dụng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và những quy định của UNCLOS để giải quyết phân định biển. Đầu năm 1992, trong chuyến thăm Kuala Lumpur của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, một thoả thuận về tiến hành đàm phán phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được thông qua.

Trên cơ sở thoả thuận đó, từ ngày 03-05/6/1992, tại KualaLumpur, vòng đàm phán đầu tiên giữa hai nước Việt Nam và Malaysia đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Trên cơ sở nội dung của vòng đàm phán đầu tiên đó, hai nước đã từng bước nhất trí thỏa thuận áp dụng nguyên tắc dàn xếp tạm thời được quy định trong Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, đó là ranh giới được vạch ra và ghi rõ trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định vị trí của nó, có trường hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch định này có thể được thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm. Trên cơ sở đó hai bên nhanh chóng đi đến thỏa thuận áp dụng mô hình khai thác chung cho vùng xác định trên tinh thần hiểu biết và hợp tác. Ngày 05/6/1992, hai nước đã chính thức ký Bản ghi nhớ quy định phạm vi vùng xác định, và hai bên phải cử đại diện của mình để tiến hành các hoạt động thăm dò và khai thác trong vùng xác định và sự hợp tác khai thác đó không làm phương hại đến kết quả hoạch định phân định biển cuối cùng giữa hai nước.

Việc ký kết Bản ghi nhớ ngày 05/6/1992 cho thấy Việt Nam luôn là nước đi đầu trong việc áp dụng các quy định của các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, không chỉ trong phân định biển mà cả trong các biện pháp phát triển chung nguồn tài nguyên biển trong vùng biển chồng lấn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Bản ghi nhớ cũng không giải quyết triệt để được vấn đề phân định biển giữa hai nước Việt Nam và Malaysia. Thực tế cho thấy, hai bên cần phải tiếp tục đàm phán hòa bình và dựa trên nội dung của UNCLOS và Bản ghi nhớ để phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Để thực hiện nội dung của Bản ghi nhớ, Việt Nam đã cử Petro Vietnam, Malaysia cử Petronas hợp tác khai thác nguồn dầu khí ở vùng xác định. Ngày 29/7/1997, tấn dầu đầu tiên đã được khai thác tại mỏ Bunga kekwa và sự kiện này đã đánh dấu thành công lớn cho cả hai bên trong quản lý, hợp tác khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như đóng góp kinh nghiệm quý báu để giải quyết các tranh chấp khác. Do khoảng cách giữa bờ biển và các đảo của hai bên chưa tới 400 hải lý, nằm trên một thềm lục địa thuần nhất và hơn nữa yêu sách của hai bên đều dựa trên đường trung tuyến, tức là dựa trên tiêu chuẩn khoảng cách bờ biển của hai quốc gia, cho nên hai nước có thể sử dụng một đường phân định đơn nhất làm ranh giới cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước.

Hợp tác khai thác chung được xem là một thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan, nhằm chia sẻ nguồn tài nguyên trên các vùng biển chồng lấn. Cơ sở của các thỏa thuận này chính là những quy định của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là quy định của UNCLOS. Xét trên phương diện luật, UNCLOS yêu cầu các nước liên quan tiến hành đàm phán về các dàn xếp tạm thời trong khi chờ đàm phán để ký hiệp định cuối cùng về việc phân định ranh giới biển. Dàn xếp tạm thời có thể bao gồm các thỏa thuận cùng nhau khai thác thủy sản hoặc cùng nhau thỏa thuận khai thác các nguồn tài nguyên biển khác như dầu mỏ và khí đốt. Về phương diện chính trị, thỏa thuận tạm thời về khai thác chung được xem là giải pháp tạm thời nhằm giảm nguy cơ xung đột giữa các bên tranh chấp và chỉ nhằm mục đích khai thác nguồn tài nguyên biển và biện pháp này cũng không làm ảnh hưởng đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển. Như vậy, hợp tác khai thác chung giữa các quốc gia ASEAN được triển khai thực hiện thường xuyên và có hiệu quả sẽ góp phần làm giảm nguy cơ gây bất ổn và đảm bảo môi trường hòa bình và tự do hàng hải ở Biển Đông. Tại những cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông đã có nhiều đề nghị áp dụng phương án hợp tác khai thác chung trên vùng biển chồng lấn, nhưng trên thực tế việc triển khai mô hình này không phải lúc nào cũng dễ dàng.

Hợp tác phân định biển giữa một số nước

Phân định biển là nội dung quan trọng trong chính sách của các quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo, đảo trên thế giới và khu vực. Phân định biển giữa các quốc gia có vùng biển tiếp giáp nhau là nhằm tạo ra đường biên giới trên biển rõ ràng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để quản lý và phát triển các lĩnh vực kinh tế biển. Trong thực tế, tại khu vực Biển Đông, đã có nhiều hiệp định phân định biển được ký kết trên tinh thần hòa bình, ổn định, hợp tác khai thác chung giữa các quốc gia liên quan. Việt Nam đã tiến hành đàm phán phân định biển với hầu hết các nước láng giềng có chung biên giới biển, có thể kể tới Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc năm 2000, Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc năm 2000, Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam với Thái Lan trong vịnh Thái Lan năm 1997, Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia năm 1982, Hiệp định phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia năm 2003. Hiện nay Việt Nam và Indonesia đang đẩy nhanh tiến độ đàm phán phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước. Tuy nhiên, vấn đề phân định biển không phải ở khu vực nào cũng có thể tiến hành một cách dễ dàng được, bởi vì khó khăn nhất là ở vấn đề đàm phán giải quyết về tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng đảo vì do quan điểm của chủ quyền của các bên còn quá xa nhau.

Ngày 15/12/2016, Quốc hội Indonesia (DPR) đã phê chuẩn hiệp định phân định biển giữa Indonesia và Singapore, theo đó ranh giới trên biển giữa hai nước được xác định ở phía Đông eo biển Singapore. Hiệp định này xác định đường biên giới trải dài 9,45 km giữa Changi của Singapore và đảo Batam của Indonesia. Sự phê chuẩn này diễn ra sau 27 tháng kể từ khi hiệp định biên giới trên biển giữa hai nước được ký kết vào tháng 9/2014. Đáng chú ý là trong kỳ họp Quốc hội kéo dài 1 tháng, DPR chỉ phê chuẩn 2 dự luật, trong đó có hiệp định với Singapore, trong khi trì hoãn tới 40 dự luật khác. Indonesia coi việc phê chuẩn Hiệp định trên có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó giúp phân định ranh giới trên biển nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền và bảo tồn sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Hiện nay Indonesia đã giải quyết tất cả các ranh giới hàng hải song phương với Singapore, ngoại trừ ranh giới giữa đảo Bintan của Indonesia và đảo Pedra Branca của Singapore. Singapore cần phải đàm phán phân định ranh giới vùng biển của đảo Pedra Branca với Malaysia sau khi đào nảy được Tòa trọng tài công lý quốc tế (ICJ) tuyên bố là thuộc chủ quyền của Singapore vào tháng 5/2008. Hiệp định vừa được phê chuẩn là hiệp định trên biển thứ ba giữa Singapore và Indonesia.

Vào tháng 5/1973, dưới thời của Chính quyền của Tổng thống Suharto và Thủ tướng Lý Quang Diệu, hai nước đã ký Hiệp định phân định biên giới trên biển dọc theo phần trung tâm của eo biển Singapore. Hiệp định này được Indonesia phê chuẩn vào tháng 12/1973, Singapore phê chuẩn vào tháng 8/1974. Tiếp đó vào tháng 3/2009, hiệp định phân định biên giới thứ hai tại phía Tây của eo biển Singapore, bao gồm vùng biển trải dài giữa bãi Sultan của Singapore và vùng biển Pulau Nipa của Indonesia. Hiệp định thứ hai này được cả hai bên phê chuẩn vào tháng 8/2010. Mối quan hệ cá nhân tốt đẹp giữa Thủ tướng Lý Hiển Long và Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono và sau đó là Tổng thống Jokowi Widodo đã giúp cho hai nước nhanh chóng phê chuẩn Hiệp định phân định biên giới thứ 3. Hiệp định này được phê chuẩn chỉ một tháng sau khi hai nhà lãnh đạo có cuộc gặp hẹp đầu tiên vào tháng 11/2016. Sự dễ dàng và nhanh chóng trong việc phê chuẩn của Indonesia cũng có thể là nhờ sự ủng hộ về chính trị trong nước. Chủ nghĩa dân tộc bùng phát trong xã hội Indonesia đòi hỏi chính phủ nước này phải đảm bảo Indonesia có đường biên giới xác định rõ ràng để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Với hiệp định này, Indonesia có thể có điều kiện tốt hơn để quản lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Ngày 23-5/2014, Philippines và Indonesiađã ký Hiệp định về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà Indonesia trên vùng biển Mindanao và Celebes trước sự chứng kiến của Tổng thống hai nước. Lễ ký trên diễn ra trong khuôn khổ chuyến thăm cấp nhà nước tới Philippines, đồng thời để tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á và Diễn đàn kinh tế thế giới của Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono.

Ngoài ra, Malaysia và Indonesia cũng đã tiến hành phân định trên biển. Tổng thống Indonesia Joko Widodo và Thủ tướng Malaysia Najib Razak đã nhất trí đẩy nhanh việc hoàn thành việc phân định biên giới biển giữa hai nước. Đây là một trong những điểm chính của thỏa thuận giữa Indonesia và Malaysia trong các cuộc họp song phương giữa lãnh đạo hai nước tại Putra Jaya, Malaysia ngày 6/2/2015. Cuộc đàm phán kỹ thuật đường biên giới biển giữa Indonesia và Malaysia đã được tổ chức từ ngày 24 đến ngày 26/2/2015. Ngoài ra, để tạo động lực sớm hoàn thành các cuộc đàm phán, Tổng thống Jokowi và Thủ tướng Najib đã đồng ý bổ nhiệm Trưởng đoàn đàm phán của hai nước. Bên cạnh đó, hai nước cũng nhất trí tiến tới hoàn thành các tiêu chuẩn của các thủ tục trong việc xử lý đối với các ngư dân trong vùng biển vẫn còn chồng chéo. Đối với lao động nhập cư Indonesia, hai nhà lãnh đạo nhất trí tăng cường các nỗ lực bảo vệ lao động nhập cư tốt hơn, trong đó có việc tăng cường cung cấp lao động thông qua thủ tục hợp pháp. Hai nhà lãnh đạo đã thể hiện quyết tâm tiếp tục tối ưu hóa tiềm năng hợp tác kinh tế giữa hai nước, bao gồm cả thương mại và đầu tư. Tổng thống Jokowi đã mời các doanh nhân Malaysia đầu tư vào Indonesia, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, như đường cao tốc, nhà máy điện, đường sắt và cảng biển.

Triển vọng hợp tác quốc tế trên biển giữa các nước ASEAN

Trong xu thế hòa bình hữu nghị giữa các nước ASEAN hiện nay được chú trọng, những bất đồng, mâu thuẫn giữa các quốc gia trên biển sẽ được các quốc gia hữu quan nỗ lực hợp tác để giải quyết thông qua đàm phán hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và các thỏa thuận khu vực. Tình hình an ninh khu vực Biển Đông có chiều hướng diễn biến phức tạp, khó lường, do vậy nội dung hợp tác tuần tra chung trên biển sẽ ngày càng trở nên nhu cầu cấp thiết của thực tiễn. Chính vì vậy, lực lượng chuyên trách trên biển của các nước hữu quan thành viên ASEAN cần tiếp tục hợp tác, trao đổi thông tin, phối hợp xây dựng kế hoạch tuần tra chung trên biển nhằm đạt hiệu quả cao nhất.

Ở những vùng biển chồng lấn chưa có hiệp định phân định biển rõ ràng theo quy định của UNCLOS, cần có những thỏa thuận phát triển chung đối với nguồn tài nguyên biển. Thỏa thuận phát triển chung sẽ góp phần tăng cường xây dựng lòng tin, giảm bớt sự nghi kỵ lẫn nhau. Hiện nay ở Biển Đông giữa các quốc gia thành viên ASEAN còn có nhiều vùng biển chồng lấn chưa được phân định rõ ràng, do đó nhu cầu hợp tác khai thác chung là rất lớn. Khu vực Biển Đông còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định, ảnh hưởng đến tự do hàng hải quốc tế và gây mất an toàn đối với tàu thuyền của ngư dân khai thác hải sản. Do đó nhu cầu hợp tác quốc tế giữa các quốc gia hữu quan để chia sẻ thông tin là cấp thiết. Bối cảnh hiện nay và thời gian tới, các quốc gia thành viên ASEAN cần tăng cường phối hợp chia sẻ thông tin, phối hợp hành động để duy trì an ninh, trật tự an toàn và đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông. Để thiết lập trật tự hàng hải hợp pháp ở Biển Đông đòi hỏi ba yếu tố: Tuân thủ nghiêm túc UNCLOS, đề cao vai trò trung gian của các tổ chức quốc tế để thảo luận các vấn đề an ninh hàng hải và thúc đẩy hợp tác, củng cố lại các chuẩn mực, quy tắc để giải quyết khủng hoảng, kiểm soát và ngăn ngừa xung đột.

Nhìn chung, tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, xuất phát từ quan điểm khác nhau về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. Thực tế cho thấy, trước nhu cầu ngày càng tăng đối với các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển, các quốc gia hữu quan cần phải tiến hành hợp tác thiện chí để xây dựng lòng tin góp phần làm giảm nguy cơ xung đột. Hợp tác quốc tế trên biển giữa các nước thành viên ASEAN là yêu cầu của thực tiễn nhằm giảm bớt nguy cơ tiềm tàng xung đột vũ trang và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các bên liên quan.

RELATED ARTICLES

Tin mới