Wednesday, May 8, 2024
Trang chủBiển nóngSự khác biệt trong hoạt động cải tạo đảo giữa TQ và...

Sự khác biệt trong hoạt động cải tạo đảo giữa TQ và Việt Nam ở Trường Sa

Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành cải tạo phi pháp 7 bãi đá, đảo đá ở quần đảo Trường Sa (của Việt Nam), gồm đá Châu Viên, Chữ Thập, Ga Ven, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Đá Xu Bi và Vành Khăn, với tổng diện tích mở rộng khoảng 12.8 triệu m2. Hoạt động trên của Trung Quốc không chỉ vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường biển, vi phạm quyền tài phán của Việt Nam mà còn vi phạm nghĩa vụ không làm trầm trọng tranh chấp ở Biển Đông. Trái ngược với hoạt động của Trung Quốc, Việt Nam có tiến hành cải tạo một số đảo ở Trường Sa, song hoạt động của Việt Nam diễn ra với quy mô nhỏ, không làm ảnh hưởng môi trường sinh thái ở Biển Đông và chỉ đơn thuần nhằm cải thiện môi trường sống của cư dân trên các đảo.

Trung Quốc cải tạo phi pháp đá Ga Ven

Hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc vi phạm các quy định luật pháp quốc tế

Hoạt động xây dựng đảo và cải tạo đảo của Trung Quốc đã diễn ra từ những năm 1990 với quy mô nhỏ và vừa. Từ cuối năm 2013 Trung Quốc tiến hành xây dựng đảo ở quy mô lớn chưa từng thấy trên 07 thực thể ở quần đảo Trường Sa (đá Châu Viên, Chữ Thập, Ga Ven, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Đá Xu Bi và Vành Khăn), với tổng diện tích mở rộng khoảng 12.8 triệu m2 trong vòng ba năm. Trung Quốc đã cải tạo đảo tại các đảo đá (Đá Châu Viên, Đá Chữ Thập, Đá Ga Ven, và Đá Gạc Ma) và xây dựng các đảo nhân tạo ở các bãi lúc nổi lúc chìm (Đá Tư Nghĩa, Đá Xu Bi và Đá Vành Khăn). Theo phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016), hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa từ cuối năm 2013 đã vi phạm hàng loạt các nghĩa vụ theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), cụ thể: Vi phạm các nghĩa vụ bảo vệ môi trường biển theo các Điều 192, Điều 194(1), Điều 194(2), Điều 197, Điều 123, và Điều 206; Vi phạm quyền tài phán của Việt Nam liên quan đến xây dựng đảo nhân đạo theo các Điều 60 và Điều 80.

Hoạt động của Trung Quốc vi phạm nghĩa vụ bảo vệ môi trường biển

Trung Quốc cải tạo đảo chủ yếu bằng cách sử dụng kỹ thuật hút phun. Theo đó, một tàu với giàn khoan sẽ khoan vào đáy biển để lấy vật liệu cho việc san lấp, sau đó, vật liệu được hút lên và di chuyển theo một ống nỗi trên mặt biển để đổ vào địa điểm cần san lấp. Tàu phun hút lớn nhất của Trung Quốc là Tian Jing Hao có công suất 4.500 m3/h  hút cát, đá và vật chất từ đáy biển. Theo các chuyên gia của Tòa trọng tài, việc sử dụng kỹ thuật này gây tác động đến hệ thống bãi ngầm ở ba khía cạnh: (1) Trực tiếp phá hủy nơi cư trú ở bãi ngầm do bị vùi lấp; (2) Gián tiếp tác động đến hệ sinh vật tầng đáy như san hô và cỏ biển do sự thay đổi thủy động lực học, gia tăng trầm tích, tăng độ đục của nước biển và gia tăng dinh dưỡng trong nước biển; (3) Gián tiếp tác động đến sinh vật hữu cơ trong nước, như cá và vi sinh vật do việc phát tán trầm tích, chất hóa học và dinh dưỡng cũng như tiếng ồn.

Dựa trên các bằng chứng và đánh giá của chuyên gia, Tòa kết luận hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc vi phạm hàng loạt nghĩa vụ bảo vệ môi trường biển như sau:

(1) Hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc vi phạm nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo Điều 192. Điều 192 quy định nghĩa vụ chung cho tất cả các quốc gia: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.” Các quốc gia có nghĩa vụ vụ phải chủ động có biện pháp bảo vệ, gìn giữ , và không được làm xấu đi môi trường biển; bảo đảm các hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình tôn trọng môi trường của nước khác và môi trường ở vùng biển quốc tế. Nghĩa vụ này yêu cầu chủ động ngăn chặn hoặc ít nhất giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường khi tiến hành các hoạt động xây dựng quy mô lớn. Hoạt động xây dựng đảo quy mô lớn của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa đã gây ra tổn hại đến môi trường, do đó vi phạm nghĩa vụ ở Điều 192.

(2) Hoạt động nạo vét lấy vật liệu cho hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc vi phạm nghĩa vụ ở Điều 194(1) khi gây ô nhiễm trầm tích cho môi trường biển. Điều 194(1) quy định: “Các quốc gia, tùy theo tình hình, thi hành riêng rẽ hay phối hợp với nhau, tất cả các biện pháp phù hợp với Công ước, cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và ngăn chặn ô nhiễm môi trường biển, sử dụng các phương tiện thích hợp nhất mà mình có, và cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này”. Ô nhiễm môi trường được định nghĩa ở Điều 1(4), theo đó ô nhiễm môi trường biển là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật và đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển. Vì vậy, hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc bằng kỹ thuật hút phun đã phóng thích nhiều trầm tích vào nước biển, gia tăng độ đục của nước và gây tổn hại đến môi trường biển, do đó vi phạm nghĩa vụ theo Điều 194(1).

(3) Việc Trung Quốc không có biện pháp để bảo vệ hệ sinh thái và môi trường sống của các loài bị đe dọa vi phạm nghĩa vụ theo Điều 194(5). Điều 194(5) quy định: “Các biện pháp được thi hành theo đúng phần này bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ và gìn giữ các hệ thống sinh thái hiếm hoi hay mỏng manh cũng như điều kiện cư trú của các loài và các sinh vật biển khác đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt.” Các bằng chứng khoa học cho thấy khu vực biển mà các hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc thực hiện là “hệ sinh thái hiếm hoi hay mỏng manh” và là nơi cư trú của các loài đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt như ngao khổng lồ, đồi mồi và một số loài cá và san hô khác. Hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc bằng kỹ thuật hút phun đã phá hủy hệ sinh thái và nơi cư trú của các loài nêu trên, do đó vi phạm nghĩa vụ theo Điều 194(5).

(4) Việc Trung Quốc không có bất kỳ nỗ lực nào để hợp tác hay phối hợp với các quốc gia xung quanh Biển Đông khi thực hiện hoạt động xây dựng đảo đã vi phạm nghĩa vụ hợp tác theo Điều 197 và Điều 123. Việc không có hợp tác hay phối hợp với các nước khác thể hiện qua việc Philippines và các quốc gia xung quanh Biển Đông đã có phản đối với hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc. Điều 197 quy định về hợp tác trên phạm vi thế giới hay khu vực. Điều 123 quy định về hợp tác giữa các quốc gia trong các vùng biển kín và nửa kín.

(5) Việc Trung Quốc không báo cáo đánh giá tác động môi trường khi thực hiện hoạt động xây dựng đảo đã vi phạm nghĩa vụ ở Điều 206. Điều 206 quy định hai nghĩa vụ: nghĩa vụ thực hiện đánh giá tác động môi trường và nghĩa vụ báo cáo kết quả đánh giá tác động môi trường. Với quy mô và tác động của hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc, rõ ràng rằng có lý do xác đáng để tin rằng hoạt động này có thể làm thay đổi đáng kể và có hại đối với môi trường biển, và do đó Trung Quốc có nghĩa vụ phải thực hiện đánh giá tác động môi trường. Tuy nhiên, Tòa không thể kết luận Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ thực hiện đánh giá tác động môi trường theo Điều 206 bởi vì không có bằng chứng chứng minh nước này không thực hiện đánh giá tác động môi trường. Tòa chỉ kết luận Trung Quốc vi phạm nghĩa vụ báo cáo kết quả đánh giá tác động môi trường theo Điều 206. Điều 206 quy định rằng “Khi các quốc gia có những lý do xác đáng để cho rằng các hoạt động đã dự tính thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình có quy cơ gây ra một vụ ô nhiễm nghiêm trong hay làm thay đổi đáng kể và có hại đối với môi trường biển, thì trong chừng mực có thể, các quốc gia này cần đánh giá các tác động tiềm tàng cùa các hoạt động này đối với môi trường đó và cần báo cáo lại những kết quả của những đánh giá này theo cách đã được quy định ở Điều 205.” Điều 205 quy định việc công bố các báo cáo: “Các quốc gia công bố các báo cáo về kết quả thu được trong khi áp dụng Điều 204 hay, theo khoảng thời gian thích hợp, cung cấp các báo cáo như vậy cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và các tổ chức quốc tế này cần phải để cho mọi quốc gia khác sử dụng các báo cáo này.” 

Trung Quốc vi phạm quyền tài phán của Việt Nam, Philippines liên quan đến đảo nhân tạo

Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm đóng trái phép, tiến hành cải tạo phi pháp và triển khai người, trang thiết bị khí tài quân sự ra 7 đảo đá ở Trường Sa là vi phạm quyền tài phán của Việt Nam liên quan đến xây dựng đảo nhân tạo theo Điều 60 và 80. Điều 60 và 80 quy định quốc gia ven biển có quyền độc quyền trong việc cấp phép, xây dựng, vận hành và sử dụng các đảo nhân tạo, công trình và cấu trúc nhân tạo trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Hoạt động cải tạo đảo của Việt Nam ở Trường Sa

Ngoài Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đều tiến hành các hoạt động san lấp biển để mở rộng diện tích đất tại các thực thể do từng bên chiếm đóng. Điểm khác nhau lớn nhất là hoạt động của Trung Quốc có quy mô lớn vượt hẳn so với Việt Nam và Philippines. Theo Báo cáo Chiến lược an ninh biển Châu Á – Thái Bình Dương của Bộ Quốc phòng Mỹ năm 2015, diện tích cải tạo mở rộng của từng nước ở Trường Sa như sau: Trung Quốc cải tạo 11,74 km2, Việt Nam cải tạo 0,323 km2 và Philippines 0.057 km2. Báo cáo này so sánh rằng chỉ từ tháng 12 năm 2013, diện tích mà Trung Quốc mở rộng trong vòng 20 tháng lớn gấp 17 lần so với diện tích mở rộng của tất cả các quốc gia khác cộng lại trong vòng 40 năm, chiếm 95% diện tích bồi lấp trên quần đảo Trường Sa.

Với quy mô rất hạn chế, hoạt động tôn tạo, san lấp biển của Việt Nam ít có tác động đến môi trường biển hơn hẳn so với Trung Quốc. Tác động tiêu cực được hạn chế tối đa hoặc loại trừ, nên hoạt động của Việt Nam không vi phạm Điều 192 và 194(1) và (5) và cũng không thuộc trường hợp phải thực hiện báo cáo tác động môi trường và công khai báo cáo đó theo Điều 206.

Trên thực tế, những hoạt động trên của Việt Nam chỉ đơn thuần nhằm cải thiện môi trường sống của quân nhân đóng trên đảo và tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân vào tránh bão, áp thấp nhiệt đới khi cần thiết, cụ thể: (1) Các đảo, bãi cạn Việt nam cải tạo đều thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hợp pháp và được luật pháp quốc tế bảo vệ. Ngoài ra, Việt Nam là một nước gương mẫu, luôn thực thi nghiêm túc các quy định luật pháp quốc tế về biển đảo, nhất là UNCLOS. (2) Hành động của Việt Nam mang tính tích cực, chỉ nhằm cải thiện đời sống, an toàn tính mạng cho quân nhân đóng trên các đảo, bãi cạn (khi biển động, sóng biển đánh vào sát nơi binh sỹ đang đóng quân và chỗ sinh hoạt của binh sỹ rất eo hẹp) và là nơi tránh bão, áp thấp nhiệt đới cho ngư đân Việt Nam cũng như ngư dân các nước đang đánh cá hợp pháp trên Biển Đông. Hành động này góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Ðông và khu vực. (3) Việt Nam chỉ sử dụng tàu nhỏ, hút trầm tích san hô đã chết để khơi thông luồng, rạch, tạo điều kiện thuận lợi cho tàu tiếp tế và tàu cá của ngư dân ra vào đầm phá thuận tiện, an toàn. Greg Poling, chuyên gia về Biển Đông tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington nhận định hoạt động cải tạo của Việt Nam có thể không phải để xây đắp mà chỉ để giúp tàu vận tải và tàu cá dễ tiếp cận các đảo đá này. (4) Việc náo hút của Việt Nam được tiến hành một cách từ từ, không sử dụng các công cụ chuyên dụng như máy cắt, máy dung, máy phá rạn san hô (cách mà Trung Quốc tiến hành ở 7 đảo nhân tạo ở Trường Sa), những hoạt động trên không hề đe dọa hay phá hủy môi trường sinh thái ở Biển Đông. (5) Tất cả những hoạt động nâng cấp một số nhà ở, hay xây kè chắn trên các đảo, đá của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa là nhằm chắn sóng biển, không để cát và rác rơi xuống biển, ảnh hưởng môi trường xung quanh. Ngoài ra, nguyên vật liệu xây dựng (từng viên gạch, hòn sỏi) đều được Việt Nam vận chuyển từ trong nước ra. (6) Hoạt động của Việt Nam phần nào đó góp phần nâng cao năng lực phòng thủ chống lại các mối đe dọa, điều này là quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Việt Nam cũng như các nước khác ven Biển Đông. Việc này giống như Indonesia tăng cường phòng thủ Natuna, Malaysia tăng cường phòng thủ ở Sabah, Sarawak và Biển Đông và Philippines cho phép Mỹ sử dụng 5 căn cứ quân sự trên lãnh thổ.

Trong khía cạnh khác, theo AMTI, trong nhiều năm qua, Việt Nam mới chỉ bồi đắp thêm khoảng 120 mẫu Anh trên 10 đảo nhỏ, trong khi đó Trung Quốc đã bồi đắp hơn 3.200 mẫu Anh trên 7 thực thể ở quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, Bắc Kinh còn xây dựng các cảng, hải đăng, đường băng, bệnh viện, sân chơi thể thảo, lắp đặt radar, triển khai máy bay chiến đấu, tên lửa, pháo… ra 7 đảo nhân tạo. Điều này cũng được Giáo sư Carl Thayer công nhận khi cho rằng, “hoạt động xây cất của Việt Nam không chỉ nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc mà còn ít phá hoại môi trường (không nạo vét quy mô lớn các rạn san hô) và các hoạt động bồi đắp đảo của Việt Nam chỉ bằng 4% tổng diện tích Trung Quốc “cải tạo đảo”. Đáng chú ý, tổng số diện tích 15 đảo tự nhiên thuộc quần đảo Trường Sa là 1.828 km² trong khi đó tổng diện tích các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây là 12 km² (khoảng 1,300 hecta). Tính riêng đá Chữ Thập, Trung Quốc đã cải tạo phi pháp lên đến 2.74 km², Bắc Kinh cũng đã xây trên các đảo nhân tạo này một bệnh viện, 3 đường băng dài 3.000m, 5 ngọn hải đăng và nhiều căn cứ quân sự khác.

Ngoài ra, Việt Nam có hoạt động trên 12 đảo chìm ở quần đảo Trường Sa thì tính hợp pháp của hoạt động sẽ phụ thuộc vào quy chế pháp lý của vùng biển và đáy biển nơi có đảo chìm và quốc gia nào có quyền đối với vùng biển và đáy biển đó. Trong Phán quyết của Tòa trọng tài xác định hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc trên Đá Vành Khăn vi phạm quyền tài phán của Philippines do thực thể này thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Như vậy, hoạt động tôn tạo, san lấp (nếu có) của Việt Nam trên 12 đảo chìm sẽ là hợp pháp vì nó đều thuộc vùng biển của Việt Nam.

Kết luận:

Hoạt động trên cải tạo đảo của Trung Quốc không chỉ vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường biển, vi phạm quyền tài phán của Việt Nam mà còn vi phạm nghĩa vụ không làm trầm trọng tranh chấp ở Biển Đông. Trái ngược với hoạt động của Trung Quốc, Việt Nam có tiến hành cải tạo một số đảo ở Trường Sa, song hoạt động của Việt Nam diễn ra với quy mô nhỏ, không làm ảnh hưởng môi trường sinh thái ở Biển Đông và chỉ đơn thuần nhằm cải thiện môi trường sống của cư dân trên các đảo và khơi thông luồng, lạch tạo điều kiện thuận lợi cho tàu thuyền của ngư dân vào tránh bão khi cần thiết. Những hoạt động như vậy của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS.

RELATED ARTICLES

Tin mới