Friday, April 26, 2024
Trang chủBiển nóngChiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và...

Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở: Tác động đối với Việt Nam và tranh chấp Biển Đông

Việt Nam và Biển Đông là khu vực có vị trí địa chiến lược quan trọng đối với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Từ khi Nhật Bản và Mỹ đưa ra Chiến lược trên đã có những tác động, ảnh hưởng nhất định đối với Việt Nam cũng như tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Bối cảnh hình thành Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương

Theo các học giả Nhật Bản, chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vốn ban đầu là ý tưởng của Nhật Bản. Trong chuyến thăm Ấn Độ năm 2007, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã nêu quan điểm về “trục tự do và thịnh vượng dọc theo không gian Âu – Á” và sự kết hợp năng động giữa khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương”. Quan điểm này thực chất nhằm đề cao vai trò của bốn nền dân chủ hàng đầu thế giới là Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Ngay từ năm 2014, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã thúc đẩy mạnh mẽ sáng kiến này, đồng thời nhiều lần vận động giới chính trị Mỹ ủng hộ và chia sẻ đối với sáng kiến. Nhưng đến khi Tổng thống Mỹ Donald Trmup đắc cử, chính quyền Mỹ mới chấp nhận và đưa sáng kiến này trở thành một chiến lược ở tầm quốc gia.

Trong Chiến lược An ninh quốc gia mới (NSS, 12/2017) và Chiến lược Quốc phòng mới (NDS, 1/2018), chính quyền Mỹ có đề cập tới “tầm nhìn này” nhưng không đi vào chi tiết. Đến tháng 3/2018, Mỹ mới chính thức gọi tầm nhìn này là “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Cũng trong tháng 3/2018, Chính phủ Mỹ đã cử nhiều quan chức cấp cao đi tham vấn các nước trong khu vực. Cuối tháng 5/2018, Trung tâm Nghiên cứu an ninh châu Á – Thái Bình Dương (APCSS) có trụ sở tại thành phố Hawaii đã tổ chức một cuộc hội thảo lớn về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” với sự tham dự của đông đảo quan chức Chính phủ Mỹ và nhiều quan chức, chuyên gia, học giả đến từ các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Từ sau cuộc hội thảo quan trọng đó, Mỹ cơ bản định hình xong về khuôn khổ và nội hàm của Chiến lược này.

Ngày 2/6/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã chính thức công bố một số nội dung chủ chốt nhất của Chiến lược. Theo đó, bốn nguyên nhân cơ bản dẫn tới việc Mỹ, Nhật Bản và các đối tác, đồng minh xây dựng “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” như sau: (1) Quá trình chuyển dịch quyền lực đang diễn ra rất mạnh mẽ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; sự phân bổ lại quyền lực ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng đang làm thay đổi căn bản tương quan so sánh lực lượng, gây lo ngại đối với hầu hết các nước lớn. (2) Sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, nội bộ Mỹ, nhất là chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã chỉ trích mạnh mẽ chính sách “kiên nhẫn chiến lược” của người tiền nhiệm và Đảng Dân chủ; cho rằng các chính quyền Mỹ trước đây đã không làm đủ mạnh để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Do vậy, chính quyền mới của Mỹ hiện nay đã điều chỉnh cách tiếp cận, từ “kiên nhẫn chiến lược” và “tích cực can dự nhằm thay đổi hành vi của Trung Quốc” sang “cạnh tranh trực diện về mọi mặt”. Trong NSS và NDS, Mỹ xác định cả Trung Quốc lẫn Nga đều là các “cường quốc xét lại”, thách thức sức mạnh, ảnh hưởng và các lợi ích của Mỹ trên nhiều phương diện, như tuyên truyền, công nghệ, kinh tế và quốc phòng. (3) Trong bối cảnh trào lưu dân túy đang trỗi dậy mạnh mẽ, các chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump gây lo ngại sâu sắc trong số các đồng minh, đối tác của Mỹ ở khu vực, như Nhật Bản và Australia. Ông Donald Trump đã không ít lần đề cập tới khả năng rút quân Mỹ ở Hàn Quốc về nước hoặc gây sức ép buộc các nước này phải gánh thêm chi phí quốc phòng. Do vậy, các nước này đã chủ động điều chỉnh chính sách để tìm cách kéo Mỹ ở lại khu vực, gia tăng vai trò và hình thành các liên kết, tập hợp lực lượng mới có lợi cho mình. (4) Do Ấn Độ có vai trò rất quan trọng ở khu vực (cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương), quan hệ Nhật Bản – Ấn Độ, Mỹ – Ấn Độ đang ngày càng “nồng ấm”… Hai bên cũng chia sẻ nhiều quan điểm, lập trường chung, nhiều lợi ích chung to lớn nên Mỹ và Nhật Bản đều muốn lôi kéo Ấn Độ để gia tăng đối trọng với Trung Quốc ở trên toàn tuyến. Trong khi đó, do bố trí lực lượng của Mỹ và đồng minh từ khu vực Nam Đài Loan tới châu Đại dương còn khá mỏng, nên Mỹ và Nhật Bản có xu hướng muốn lôi kéo cả Australia và các nước có quan điểm, lập trường tương tự để tạo thế cân bằng chiến lược mới ở Nam bán cầu.

Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Mỹ

Ngày 2/6/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định: “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở là một bộ phận trong Chiến lược An ninh quốc gia của Mỹ”. Trong Chiến lược này, Mỹ coi việc làm sâu sắc hơn quan hệ với đồng minh đối tác là một ưu tiên hàng đầu; vai trò trung tâm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có ý nghĩa sống còn và hoan nghênh sự hợp tác với Trung Quốc bất cứ khi nào có thể. 

Trong khi tìm kiếm các cơ hội mới để thúc đẩy hợp tác đa phương thực chất, Mỹ sẽ đẩy mạnh can dự với các cơ chế khu vực hiện có. Chính quyền Mỹ coi khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là địa bàn ưu tiên chiến lược. Về chính trị, Mỹ ủng hộ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mọi quốc gia, bất kể lớn, nhỏ; ủng hộ tự do cho mọi quốc gia, tiếp cận không hạn chế đối với các vùng biển, không gian quốc tế, giải quyết hòa bình các tranh chấp và không sử dụng sức mạnh chèn ép các nước láng giềng, tuân thủ luật pháp và các chuẩn mực quốc tế – vốn tồn tại từ lâu và là nền tảng cho hòa bình, thịnh vượng từ nhiều thập niên qua… Về kinh tế, Mỹ khẳng định sẽ cạnh tranh công bằng với tất cả các bên; theo đuổi chính sách thương mại công bằng, đầu tư tự do, bình đẳng và “có đi có lại”. Để thực hiện các nguyên tắc trên, Mỹ công bố các nhóm giải pháp cơ bản, bao gồm: (1) Mở rộng sự quan tâm đối với không gian biển. Mỹ sẽ duy trì các không gian chung trên biển bằng cách trợ giúp các đối tác xây dựng những lực lượng hải quân và các lực lượng thực thi pháp luật mạnh, hỗ trợ các đối tác xây dựng năng lực nhằm tăng khả năng giám sát và bảo vệ lợi ích và trật tự trên biển. (2) Tăng cường năng lực và tính liên thông trong tác chiến. Để thực hiện điều này, Mỹ sẽ tài trợ và bán các trang thiết bị quốc phòng tiên tiến cho các đối tác an ninh khu vực, tạo cơ hội về đào tạo quân sự chuyên nghiệp (theo tiêu chuẩn Mỹ) cho các sĩ quan và hạ sĩ quan quân đội các nước trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. (3) Tăng cường thượng tôn pháp luật, thúc đẩy pháp quyền và quản trị minh bạch. Mỹ cho rằng điều này sẽ giúp hạn chế những tác động xấu có thể ảnh hưởng tới phát triển kinh tế. Sự can dự về quốc phòng của Mỹ sẽ hỗ trợ, bổ sung thêm cho vấn đề này. (4) Thúc đẩy phát triển kinh tế do khu vực tư nhân dẫn dắt. Mỹ công nhận khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có nhu cầu rất lớn về đầu tư, bao gồm cả kết cấu hạ tầng. 

Về các đối tác và các cơ chế khu vực, Mỹ sẽ tiếp tục tham gia sâu rộng vào các thiết chế khu vực hiện hành. Trong số đó, Mỹ sẽ ủng hộ và trợ giúp để ASEAN đóng vai trò trung tâm trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Một ASEAN đoàn kết và chung tiếng nói có thể giúp duy trì một khu vực tự do và tôn trọng luật pháp quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục tham gia các cơ chế do ASEAN thành lập, như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Cấp cao Đông Á (EAS), APEC và các cơ chế hợp tác ba bên, nhiều bên với các đối tác khác.

Ở khu vực Đông Bắc Á, Mỹ đang tập trung nâng cấp, hiện đại hóa các quan hệ liên minh giữa Mỹ và Nhật Bản để đối phó với các thách thức trong thế kỷ XXI. Ở Đông Nam Á, Mỹ sẽ khôi phục quan hệ đồng minh với Phi-líp-pin và Thái Lan, thúc đẩy quan hệ đối tác bền vững với Singapore và phát triển quan hệ đối tác mới với các nước chủ chốt ở khu vực, như Indonesia, Malaysia và Việt Nam. Ở châu Đại Dương, Australia vẫn là một trong những đồng minh lâu đời nhất của Mỹ. Mỹ cũng sẽ khôi phục quan hệ đối tác quốc phòng với New Zealand, đồng thời tăng cường can dự, kết nối với các đồng minh có lực lượng đang đồn trú ở khu vực Thái Bình Dương, như Anh, Pháp và Canada để thúc đẩy lợi ích tương đồng. Ở Nam Á, Mỹ đang tăng cường quan hệ đối tác với các nước trong khu vực, nhất là với Ấn Độ. Mỹ coi quan hệ Ấn Độ – Mỹ là mối quan hệ “đối tác tự nhiên” giữa hai nền dân chủ lớn nhất thế giới, dựa trên sự tương đồng về lợi ích chiến lược, các giá trị chung, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Với Trung Quốc, Mỹ chỉ trích mạnh mẽ việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông, bao gồm việc triển khai tên lửa đất đối hải, đất đối không, các hệ thống ra-đa gây nhiễu và triển khai máy bay ném bom cỡ lớn… 

Như vậy có thể khẳng định, chính quyền Mỹ dưới thời của Tổng thống Donald Trump có những nỗ lực lớn nhằm định hình các mục tiêu, nguyên tắc, nội hàm và định hướng lớn trong Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Trong thời gian tới, khi các nội hàm của chiến lược này được triển khai, sẽ có nhiều tác động và hệ lụy đối với cả thế giới và khu vực nói chung, cũng như Việt Nam nói riêng.

Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Nhật Bản

Tương tự như Mỹ, ngay từ rất sớm, Chính phủ của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã định hình được các mục tiêu, nguyên tắc, nội hàm của chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Theo các chuyên gia Nhật Bản, chiến lược này bao gồm ba trụ cột. (1) Phổ biến và định hình các giá trị cơ bản, như thượng tôn pháp luật, tự do, an ninh, an toàn hàng hải – hàng không. Để triển khai trụ cột này, Mỹ và Nhật Bản sẽ tăng cường bảo vệ các quy tắc và chuẩn mực chung về hàng hải. Mỹ và Nhật Bản cũng sẽ tăng cường phối hợp để đưa ra các thông điệp tại các diễn đàn song phương và đa phương ở khu vực; tăng cường liên kết đồng minh và các nước có cùng quan điểm, lập trường. (2) Tăng cường sự phồn vinh kinh tế ở khu vực. Để triển khai trụ cột này, Mỹ và Nhật Bản sẽ tăng cường gắn kết kinh tế với khu vực, như kết nối thương mại, xúc tiến đầu tư và đẩy mạnh hỗ trợ các nước trong khu vực xây dựng kết cấu hạ tầng chất lượng cao, kiến trúc kinh tế khu vực với tiêu chuẩn cao và quản trị minh bạch, hiệu quả; hỗ trợ xây dựng năng lực trong các lĩnh vực, như nguồn nhân lực, môi trường kinh doanh và cải cách thể chế… (3) Bảo đảm hòa bình, ổn định. Để triển khai trụ cột này, Mỹ và Nhật Bản sẽ tăng cường hợp tác giao lưu quốc phòng, mà trọng tâm là hợp tác an ninh biển. Đặc biệt, cả hai nước sẽ đẩy nhanh việc hỗ trợ xây dựng năng lực cho các quốc gia ven biển ở châu Á, chủ yếu là ở xung quanh Biển Đông. Đây là điểm đặc biệt có lợi cho các nước khu vực. Mỹ và Nhật Bản sẽ đồng thời vừa tăng cường hợp tác chia sẻ thông tin, kể cả thông tin tình báo, tăng cường chống khủng bố, cướp biển, vừa giúp nâng cao năng lực cho các nước trong khu vực về cứu trợ thảm họa, viện trợ nhân đạo…

Trong quá trình triển khai, Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương sẽ được thúc đẩy theo nhiều hướng, như song phương (Nhật Bản – Ấn Độ…), ba bên (Mỹ – Nhật Bản – Ấn Độ, Nhật Bản – Ấn Độ – Australia), bốn bên (Nhật Bản – Mỹ – Ấn Độ – Australia) và khu vực (hợp tác với ASEAN, EAS, ADB…).

Nhìn chung, giới chuyên gia cho rằng, ASEAN có vị trí quan trọng trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Nhật Bản khi xét tới vị trí địa lý và ảnh hưởng của ASEAN đối với trật tự khu vực trong tương lai. Trong thời gian tới, Nhật Bản sẽ đẩy mạnh can dự đối với ASEAN và Đông Nam Á, chủ yếu tập trung vào các đối tác chủ chốt, như Việt Nam, Philippines, Singapore, Indonesia và trên các lĩnh vực thương mại. ASEAN tiếp tục là đối tác quan trọng của Mỹ và Nhật Bản. Quan hệ Mỹ – ASEAN và Nhật Bản – ASEAN là một phần trong chính sách can dự đa tầng nấc của hai nước này đối với khu vực Ấn – Thái, đồng thời góp phần vào nỗ lực chung nhằm duy trì sự can dự của Mỹ/Nhật Bản ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Những ẩn số đối với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở

Để chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đạt được kết quả và dấu ấn, sẽ còn nhiều ẩn số phải giải đáp. Trước hết, cần lưu ý rằng ý tưởng Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương dựa trên bốn trụ cột là Mỹ, Nhật, Ấn, Australia và trùm lên đó là tấm màn tầm nhìn về một khu vực tự do, rộng mở. Bốn nước dường như ở những vai tương đối ngang nhau.

Còn tấm màn tầm nhìn đó lại không phải là một cơ chế ràng buộc thiết thực gì trong thời điểm hiện tại, và nó đặc biệt mơ hồ chưa rõ rằng mục đích chính đằng sau là đem lại lợi ích cho khu vực, cho bốn nước nói riêng hay để kiềm tỏa Trung Quốc. Trong thời kỳ hiện đại, nhìn chung các tập hợp lực lượng của phương Tây đều có một cường quốc dẫn dắt, đó là Mỹ. Bối cảnh nội bộ nước này hiện nay liệu có cho phép chính quyền Tổng thống Trump thực hiện những toan tính đối ngoại của mình hay không là một câu hỏi sẽ còn bỏ ngỏ trong thời gian tới.

Bốn nước trụ cột của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đều là cường quốc, phân bổ ở 4 vị trí địa lý khá xa nhau. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi nước có một đặc điểm tình hình, lợi ích và tầm nhìn khu vực riêng. Việc điều phối, phân vai của nhóm sẽ không đơn giản. Sự khác biệt của nhóm “Bộ tứ” này với NATO, SEATO hay đơn thuần là liên minh Mỹ – Nhật – Hàn đó là khoảng cách địa lý. Muốn phối hợp tốt, ít nhất về mặt quân sự hay đảm bảo an ninh biển sẽ đòi hỏi phải có kinh phí, năng lực quản trị và sự hiểu biết lẫn nhau tương đối sâu sắc. Đây là điều còn thiếu.

Quan trọng hơn nữa, sự hình dung ra một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương còn mơ hồ và chưa nhận định được vai trò của các nước khác trong khu vực, trong đó bao gồm các nước ASEAN, Hàn Quốc, và cả Pakistan cũng như các nước Châu Phi. Không thể không tính đến vai trò của các nước “ngoài Bộ tứ” này. Họ có thể không tham gia, nhưng nếu một vài nước này không ủng hộ thì sẽ rất khó để tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương thành hiện thực, bởi lẽ: biển không phải của riêng ai.

Điều đáng lo ngại cũng nằm ở tính khả thi. Tầm nhìn ý tưởng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được phác họa đẹp đẽ, nhưng chưa nêu rõ rằng liệu các nước sẽ phải phân bổ nguồn lực kinh tế, chính trị, quân sự như thế nào. Dường như hiện nay mới chỉ nêu nhiều về giá trị, và một vài hướng giải pháp về quân sự, nhưng nội hàm về kinh tế chưa có gì. Việc Mỹ rút khỏi TPP đồng nghĩa với việc quốc gia này rút một chân kinh tế và đẩy mạnh một chân quân sự tại khu vực. Với tình hình thế giới nhìn chung vẫn ưa chuộng hòa bình và hợp tác như hiện nay, thiếu vắng một trụ cột về kinh tế sẽ khiến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trở nên kém hấp dẫn, nhất là khi BRI đang được đẩy mạnh.

Ẩn số cuối cùng cần phải nói đến đó là phản ứng và đối sách của Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc vẫn giữ thái độ tương đối kín tiếng về ý tưởng này, trong khi họ tập trung vào củng cố nội bộ và phát triển các ý tưởng và con đường đi ra ngoài của riêng mình. Trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ làm gì là một điều còn bỏ ngỏ.

Biển Đông có vị trí địa chiến lược quan trọng trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương

Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 3° lên đến vĩ độ 26° Bắc và từ kinh độ 100° đến 121° Đông. Biển Đông được bao bọc bởi 9 nước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Singapore, Thái Lan, Campuchia và Đài Loan. Biển Đông là một trong các khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới.

Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Đây được coi là tuyến dường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 – 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là làu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực, nhiều nước và vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng dường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông. Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Dông. Khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, trong đó eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới. Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa – chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế.

Không những vậy, Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguycn sinh vật (thuỷ sản), phi sinh vật (dầu khí, khoáng sản). Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục dịa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Brunei, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Ngoài ra, Biển Đông còn là một vùng biển nước sâu rộng lớn, có nhiều tiền đề thuận lợi cho việc thành tạo và tích tụ băng cháy (còn gọi là khí hydrat).

Khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, được Mỹ và các đồng minh cổ vũ, bao gồm vùng biển phía Bắc Ấn Độ Dương và toàn bộ vùng biển giữa Thái Bình Dương, kéo dài đến bờ Tây Mỹ, trong đó Biển Đông nằm ở vị trí trung tâm. Đối với chính quyền Tổng thống Donanld Trump, khu vực “dân cư đông đúc nhất và năng động nhất hành tinh về mặt kinh tế” này là nơi cạnh tranh của hai quan điểm đối kháng, một bên cổ vũ cho “tự do”, “dựa trên luật pháp quốc tế”, bên kia chủ trương dùng “vũ lực”. Washington chỉ đích danh Trung Quốc như là bên chủ trương dùng vũ lực để thao túng con đường hàng hải chiến lược, với việc “thúc đẩy quân sự hóa tại Biển Đông”, thách thức chủ quyền của nhiều quốc gia ven bờ.

Các phản ứng ban đầu của Việt Nam đối với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở

Xét bề ngoài, chiến lược Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Mỹ theo định nghĩa của Alex N. Wong phần lớn tương thích với các lợi ích quốc gia của Việt Nam. Là một bên tham gia tranh chấp Biển Đông và dễ bị tổn thương trước quyền lực ngày càng lớn và sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ một trật tự khu vực dựa trên quy tắc và không tồn tại sự ép buộc. Tương tự như vậy, tự do hàng hải và hàng không cũng là những gì Việt Nam tìm cách thúc đẩy như một lá cờ tập hợp lực lượng để huy động sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc đấu tranh của mình chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Là một nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào thương mại và đầu tư nước ngoài, đồng thời đang tìm cách nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, các thuộc tính kinh tế khác của chiến lược, như cơ sở hạ tầng mở, đầu tư mở và thương mại mở, cũng phù hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung. Thuộc tính duy nhất có thể gây ra một số bất an trong giới lãnh đạo Việt Nam là việc nó nhấn mạnh vào quản trị tốt, đặc biệt là sự tôn trọng các quyền cơ bản. Tuy nhiên, do hai nước đã nhiều lần cam kết tôn trọng thể chế chính trị của nhau và Washington ít phê phán hơn đối với hồ sơ nhân quyền của Việt Nam trong những năm gần đây, thuộc tính này không phải là mối quan ngại quá lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là nếu xét các lợi ích chiến lược mà các thuộc tính khác của chiến lược có thể mang lại cho đất nước.

Như vậy, người ta có thể mong đợi Việt Nam sẽ ủng hộ chiến lược này. Tuy nhiên, phản ứng của Việt Nam đối với chiến lược cho đến nay vẫn chưa rõ ràng.

Ở cấp độ không chính thức, có rất ít cuộc thảo luận công khai giữa các nhà chiến lược và học giả Việt Nam về chính sách, tác động của nó đối với Việt Nam, cũng như cách Việt Nam nên phản ứng với chính sách này như thế nào. Ở cấp độ chính thức, giới chức Việt Nam chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về chiến lược. Vì chiến lược vẫn đang trong giai đoạn hình thành và được nhiều nhà quan sát nhìn nhận như một công cụ để Mỹ “kiềm chế” Trung Quốc, nên Việt Nam không có lợi ích trong việc đưa ra lập trường công khai về chiến lược này. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách đối ngoại Việt Nam có thể chưa đạt được nhận thức chung về chính sách này.

Giống như hầu hết các nước khác trong khu vực, Việt Nam đang áp dụng thái độ “chờ xem”, và các phản ứng tương lai của Việt Nam đối với chiến lược sẽ phụ thuộc vào các tính toán của Hà Nội cũng như tình hình phát triển thực tế của chiến lược mà hiện tại vẫn chưa rõ ràng. Cách tiếp cận thận trọng của Việt Nam cũng hợp lý bởi thực tế rằng trong khi Mỹ vẫn đang nỗ lực xây dựng một tầm nhìn chiến lược đáng tin cậy và nhất quán đối với khu vực, thì ba thành viên khác của nhóm Bộ Tứ cũng có thể có những tính toán riêng, khiến các nước khác trong khu vực càng có lý do để không vội vàng đưa ra một lập trường chính thức về chiến lược này.

Dự báo tác động của Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở đối với Việt Nam

Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đang mở ra nhiều cơ hội đối với Việt Nam. Có thể thấy rõ, trong Chiến lược này, Việt Nam có lợi ích to lớn trong hầu hết các vấn đề trên cả ba trụ cột. Quan điểm, lập trường của Việt Nam cũng có nhiều điểm tương đồng với các nội hàm của cả ba trụ cột nêu trên. (1) Đa số các mục tiêu, nguyên tắc, nội hàm của Chiến lược này không mâu thuẫn với các quan điểm, lập trường cũng như lợi ích quốc gia của Việt Nam, nếu không nói là có sự tương đồng đáng kể (ở mức độ cao và phân bổ đều trên cả ba trụ cột). (2) Về phát triển, Việt Nam cũng đang có nhu cầu to lớn về xây dựng kết cấu hạ tầng chất lượng cao, thúc đẩy kết nối kinh tế, thương mại, xúc tiến đầu tư. Việc Mỹ, Nhật Bản và các đối tác sẵn sàng hợp tác, chia sẻ là điều rất đáng quý. (3) Về xây dựng năng lực, Việt Nam mong muốn các đối tác giúp Việt Nam về trang thiết bị, đào tạo, huấn luyện; sẵn sàng phối hợp với các nước để cùng nhau đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. (4) Việt Nam luôn mong muốn châu Á – Thái Bình Dương và cả khu vực Ấn Độ Dương là khu vực hòa bình, ổn định, tự do và mở cửa cho tất cả các bên cùng tham gia. Do vậy, đến nay sơ bộ có thể khẳng định khi Mỹ và Nhật Bản triển khai chiến lược này, sẽ có nhiều nhiều cơ hội được mở ra đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Chiến lược này cũng đang đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam. Cụ thể là: Thứ nhất, thúc đẩy hợp tác với các nước lớn thường đi kèm với việc tập hợp lực lượng. Cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực đang gia tăng nhanh chóng, Việt Nam cần hết sức tỉnh táo để tránh phải lựa chọn bên này hay bên kia. Xử lý tốt và cân bằng quan hệ giữa các nước lớn chính là chìa khóa quan trọng nhất để thúc đẩy hợp tác, tranh thủ các cơ hội to lớn do Chiến lược này mang lại. Thứ hai, hiện nay mục tiêu và nguyên tắc của Chiến lược này đã khá rõ, nhưng nội hàm, phương thức triển khai và bước đi cụ thể của mỗi đối tác còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Do đó, chiến lược này cần được theo dõi thêm. Thứ ba, vẫn còn không ít sự khác biệt giữa bốn nước chủ chốt (Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ), trong Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Do vậy, cần xử lý khéo mối quan hệ giữa các nước này. 

Triển vọng Việt Nam tham dự vào Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở

Vì Chiến lược trên phần lớn vẫn là một tầm nhìn chứ chưa phải là một kế hoạch cụ thể hoặc một cơ chế được thể chế hóa, việc Mỹ sẽ triển khai chiến lược như thế nào vẫn là một câu hỏi mở đối với các nước trong khu vực. Có khả năng là thay vì thể chế hóa Bộ Tứ hoặc thiết lập một khối an ninh cứng nhắc để thực hiện chiến lược, Washington sẽ tìm cách thiết lập và tăng cường mạng lưới các đồng minh và đối tác an ninh để làm việc cùng nhau nhằm bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc và kiềm chế tham vọng thống trị khu vực của Trung Quốc. Trong kịch bản này, liệu chiến lược có thành công hay không sẽ phụ thuộc vào việc các nước trong khu vực sẵn lòng hợp tác với Washington đến đâu để theo đuổi các mục tiêu chung này.

Do tranh chấp Biển Đông và tính dễ bị tổn thương trước một Trung Quốc đang trỗi dậy, Việt Nam có lợi ích trong việc hợp tác với Mỹ và các đối tác an ninh khác để duy trì trật tự khu vực dựa trên quy tắc cũng như thúc đẩy một kiến ​​trúc an ninh khu vực không bị chi phối bởi bất kỳ cường quốc nào. Do đó, Việt Nam có thể ủng hộ Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, mặc dù không nhất thiết phải làm điều đó một cách công khai. Về mặt ngoại giao, Việt Nam có thể làm việc với các đối tác cùng tư duy để đưa các yếu tố chính của chiến lược FOIP vào các tuyên bố chung song phương hoặc đa phương. Về mặt hoạt động thực tế, Việt Nam có khả năng tiếp tục tăng cường hợp tác chiến lược với các cường quốc, đặc biệt là các thành viên của nhóm Bộ Tứ, nhằm tăng cường an ninh hợp tác trong khu vực và nâng cao vị thế đàm phán của mình trước Trung Quốc.

Tuy nhiên, giống như hầu hết các thành viên ASEAN khác, do các mối quan hệ kinh tế rộng khắp với Trung Quốc, Việt Nam có thể không muốn tham gia một khối chống Trung Quốc cứng nhắc hoặc áp dụng một cách tiếp cận mang tính đối đầu công khai trong việc quản lý sự trỗi dậy của Trung Quốc. Thay vào đó, Việt Nam dường như ưu tiên mạng lưới quan hệ an ninh hiện tại với các cường quốc lớn và các đối tác có cùng tư duy chiến lược, miễn là Trung Quốc không áp dụng một cách tiếp cận mang tính ép buộc quá mức đối với tranh chấp Biển Đông, điều có thể khiến Hà Nội chuyển sang một tư thế chiến lược mang  tính quyết đoán và đối đầu hơn.

Đồng thời, mặc dù Việt Nam và các nước trong khu vực có thể đóng một vai trò nhất định trong việc vận hành Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, việc chiến lược có thành công hay không chủ yếu sẽ do chính Mỹ quyết định. Theo đó, Washington cần thể hiện một tầm nhìn chiến lược nhất quán đối với khu vực dựa trên vai trò lãnh đạo mạnh mẽ và các cam kết lâu dài đáng tin cậy. Mỹ cũng cần làm rõ Washington mong đợi các nước trong khu vực đóng vai trò như thế nào trong chiến lược, và đưa ra một kế hoạch hành động chi tiết để định hướng cho sự tham gia của các nước quan tâm nếu muốn. Quan trọng hơn, quá trình này nên được tiến hành dựa trên tham vấn giữa Mỹ và các đồng minh và đối tác. Bất kỳ nỗ lực nào của Washington nhằm áp đặt ý chí của mình lên các nước trong khu vực, ngay cả khi nhân danh một trật tự khu vực dựa trên quy tắc mở và tự do, cũng có thể sẽ phản tác dụng.

RELATED ARTICLES

Tin mới