Thursday, May 2, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaĐiểm lại những Hội thảo quốc tế về Biển Đông trong năm...

Điểm lại những Hội thảo quốc tế về Biển Đông trong năm 2019: Đa phần lên án, chỉ trích hành động phi pháp của TQ

Từ đầu năm 2019 đến nay, nhiều tổ chức, viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước tổ chức các hội thảo phân tích, đánh giá và dự báo về diễn biến tình hình Biển Đông. Đa phần giới chuyên gia, học giả khu vực và quốc tế đều bày tỏ quan ngại về tình hình căng thẳng trong khu vực, đồng thời lên án hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam.

Hội thảo Biển Đông lần thứ 9 tại thủ đô Washington (24/7)

Hội thảo do Chương trình Đông Nam Á và Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tổ chức. Tham dự Hội thảo có nhiều chuyên gia, học giả hàng đầu của các viện nghiên cứu lớn của Mỹ, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Na Uy, Australia, Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam. Các đại biểu tập trung thảo luận 3 nội dung chính bao gồm hiện trạng tại Biển Đông , lịch sử các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông và cách thức quản lý tranh chấp ở Biển Đông.

Tại hội thảo, các học giả bày tỏ lo ngại về những diễn biến gần đây trên Biển Đông và nguy cơ xảy ra xung đột từ một sự cố giữa các bên tranh chấp, đồng thời cảnh báo các nước liên quan cần đưa ra những thông điệp rõ ràng và có những thay đổi về chính sách đối phó thích hợp hơn nhằm ngăn chặn tham vọng kiểm soát Biển Đông. Các chuyên gia cũng thảo luận những nỗ lực chính trị hợp pháp nhằm quản lý các tranh chấp, thúc đẩy hòa bình và ổn định trên Biển Đông, nhấn mạnh những bất đồng trong khu vực phải do chính các nước ASEAN tự giải quyết dựa trên Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và thông qua các biện pháp xây dựng niềm tin. Trong đó nổi lên một số điểm quan trọng sau: Ông Bill Hayton, Chuyên gia hàng đầu về Biển Đông của Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh cho rằng: “Đây rõ ràng là một sự vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNLOS), tôi không thấy có điều gì có thể biện minh cho các hoạt động hiện nay của Trung Quốc. Việt Nam có mọi quyền để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của mình. Theo công ước luật biển và phán quyết của Tòa Trọng Tài thường trực 3 năm trước đây thì khu vực biển đó thuộc về Việt Nam”. Giáo sư Stein Tonnesson thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo, Nauy cùng chia sẻ quan điểm trên: “Tôi cho rằng đây là một hành vi đáng chê trách từ phía Trung Quốc. Theo UNCLOS, Trung Quốc không có quyền được khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác. Trung Quốc đang tìm cách thực hiện “đường lưỡi bò” nhằm phục vụ phát triển bất chấp luật pháp quốc tế. Lần này Trung Quốc không khoan dầu mà tiến hành khảo sát diện rộng ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đồng thời ngăn cản các nước khác tiến hành khảo sát trong khu vực thềm lục địa của các nước này. Trung Quốc đang khảo sát ở những khu vực mà nước này không có chủ quyền và ngăn cản Việt Nam tiến hành khảo sát tại những nơi Việt Nam có chủ quyền”.

Ngoài ra, theo các nhà nghiên cứu và học giả, vấn đề Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp và do đó cần có những giải pháp cụ thể với sự tham gia của các bên và cộng đồng quốc tế. Giám đốc Chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á Gregory Poling chia sẻ: “Vấn đề Biển Đông cần được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình nghị sự ngoại giao. Trong năm 2015 và 2016, chủ đề này luôn được đề cập tại các sự kiện quốc tế và thậm chí đã được đưa vào tuyên bố chung của hội nghị G7. Nếu vấn đề này liên tục được đề cập, điều này sẽ khiến Trung Quốc giống như một quốc gia không tuân thủ luật pháp quốc tế và các nước khác sẽ không muốn hợp tác với Trung Quốc và điều này sẽ ảnh hưởng tới mục tiêu lâu dài của nước này. Trung Quốc muốn là nước lãnh đạo toàn cầu thì phải hành xử sao cho tương xứng. Một biện pháp khác đó là chúng ta có thể cân nhắc các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với các cá nhân và công ty Trung Quốc. Ví dụ, nếu một công ty Trung Quốc tham gia khảo sát trái phép ở vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì công ty này đáng bị trừng phạt. Hay nếu một tầu cá Trung Quốc có hoạt động bạo lực thì công ty sở hữu chiếc tầu đó cũng nên bị trừng phạt”. Giáo sư Stein Tonnesson cho rằng, đối thoại sẽ là một giải pháp hiệu quả: “Tôi cho rằng các quốc gia Đông Nam Á cần phải rõ ràng về việc bảo vệ quyền của mình theo UNCLOS và cộng đồng quốc tế cần khuyến khích các quốc gia này. Trong khi đó, các nước này cũng cần tiếp tục đối thoại với Trung Quốc, đặc biệt là lãnh đạo nước này nhằm đi tới những giải pháp thực chất để Trung Quốc nhận ra một số lợi ích của mình trong UNCLOS”. Ian Storey, chuyên gia về Biển Đông tại Viện ISEAS Yusof Ishak (thuộc Đại học Quốc gia Singapore), nói rằng việc đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc tiến triển có một mặt trái là nó hỗ trợ cho hai diễn ngôn mà Trung Quốc muốn tạo ra trên Biển Đông: Thứ nhất là nó tạo ra cảm giác “mọi thứ vẫn bình yên”, thứ hai là các vấn đề của châu Á nên được giải quyết chỉ bởi các nước châu Á.

Hội thảo “Các vùng biển với sự ổn định và phát triển kinh tế trong khu vực” (9/9)

Quỹ hàng hải quốc gia Ấn Độ (NMF) phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Việt Nam tại Ấn Độ tổ chức Hội thảo “Các vùng biển với sự ổn định và phát triển kinh tế trong khu vực”.

Hội thảo được chia thành hai phiên thảo luận, với chủ đề “Sự quyết đoán ở Biển Đông, quan điểm từ Việt Nam và Ấn Độ” và “Nhận diện các điểm dễ bị tổn thương về địa chính trị ở Biển Đông: Xác định các lợi ích kinh tế và con đường pháp lý”. Các học giả đã nêu bật tình hình căng thẳng trên Biển Đông hiện nay xuất phát từ các hành vi của Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định theo các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982. Không những vậy, giới học giả cũng đã thảo luận về những lợi ích kinh tế cũng như các nguy cơ và thách thức đối với các tuyến hàng hải trọng yếu ở Biển Đông và sự cần thiết phải đảm bảo an ninh, an toàn cho những tuyến đường này phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế. Theo bà Aayushi Ketkar (giảng viên Khoa quan hệ quốc tế Đại học Gautam Buddha của Ấn Độ), hành vi của Trung Quốc hiện nay ở Biển Đông không chỉ cản trở tự do đi lại mà còn làm ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác – địa kinh tế là một trong số đó. Khu vực Biển Đông đóng vai trò hết sức trọng yếu đối với an ninh năng lượng trong hiện tại và tương lai. Việc thiết lập một trật tự dựa trên luật lệ là điều mà các nước như Việt Nam và Ấn Độ cần phải chú trọng. Vì nếu chúng ta không làm được thì không một nước nào khác có thể làm được.

Hội thảo quốc tế “Giải quyết tranh chấp ở Biển Đông” (19/9)

Viện Quan hệ quốc tế Praha (IIR) thuộc Bộ Ngoại giao Séc phối hợp với Đại học Palacky Olomouc (Cộng hòa Séc) tổ chức hội thảo “Giải quyết tranh chấp ở Biển Đông”. Hội thảo đã thu hút sự tham dự của hơn 50 đại biểu là những chuyên gia thuộc các viện nghiên cứu và trường đại học của Séc. Diễn giả chính tại hội thảo là Tiến sĩ Bill Hayton, chuyên gia cấp cao thuộc Chương trình châu Á – Thái Bình Dương Viện Chatham House (Vương quốc Anh).

Phát biểu tại Hội thảo, Tiến sỹ Bill Hayton cho rằng tranh chấp ở Biển Đông là vấn đề phức tạp, không chỉ liên quan giữa Trung Quốc và các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông mà còn liên quan tới sự cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Vấn đề tranh chấp ở Biển Đông ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, trong đó có Liên minh châu Âu (EU), vì đây là vấn đề tác động tới sự ổn định và phát triển của khu vực; cho rằng EU cần tiếp tục quan tâm hơn nữa tới vấn đề Biển Đông và với thế mạnh của mình, EU cần hỗ trợ các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông nâng cao năng lực an ninh hàng hải. Ông Hayton cũng cho rằng Trung Quốc không có chứng cứ và cơ sở pháp lý để đòi hỏi chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông theo yêu sách “đường 9 đoạn”; tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đi ngược lại luật pháp quốc tế cũng như cam kết của nước này về việc duy trì quan hệ tốt đẹp với các nước trong khu vực; nhấn mạnh trong tiến trình giải quyết tranh chấp Biển Đông, một trong những yếu tố quan trọng nhất là cần phải đánh giá bằng chứng mà các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đưa ra, đồng thời các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông cần thúc đẩy đàm phán, cùng cam kết duy trì hiện trạng, không mở rộng đòi hỏi tuyên bố chủ quyền. Ngoài ra, Tiến sỹ Bill Hayton cho rằng việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 với sự hộ tống của các tàu hải cảnh vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) cho thấy Trung Quốc sử dụng sức mạnh nước lớn để đe dọa và cưỡng ép các nước trong khu vực từ bỏ quyền chủ quyền và quyền tài phán cũng như lợi ích hợp pháp của mình. Đây là hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982. EU cần quan tâm hơn tới vấn đề Biển Đông để ngăn chặn việc các quy tắc luật pháp quốc tế bị phá vỡ.

Cùng quan điểm trên, Tiến sỹ Takashi Hosoda, chuyên gia nghiên cứu về an ninh châu Á – Thái Bình Dương thuộc Đại học Tổng hợp Charles (CH Czech) nhấn mạnh các hoạt động đơn phương của Trung Quốc đã làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông, đặc biệt là việc trong hơn 2 tháng qua, Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế khi đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam ở khu vực gần Bãi Tư Chính. Ông Takashi Hosoda nhấn mạnh, Trung Quốc cần tuân thủ luật pháp và các tiêu chuẩn giá trị chung của quốc tế. Tiến sỹ Richard Turcsanyi, chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc thuộc Đại học Palacky Olomouc, cũng bày tỏ quan ngại về các hoạt động của Trung Quốc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông, tác động tiêu cực tới an ninh khu vực.

Chuyên gia James Borton, Trung tâm Ngoại giao Khoa học Đại học Tufts, Mỹ, nhận định, việc Trung Quốc vi phạm UNCLOS, phớt lờ phán quyết từ Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague, Hà Lan, trong vụ kiện của Philippines, cải tạo, xây dựng phi pháp trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông, quân sự hóa trái phép ở quần đảo Trường Sa, ra lệnh cấm đánh bắt tại những vùng biển tranh chấp và phá hủy tràn lan hệ sinh thái tại các bãi san hô đã làm bật lên thực tế rằng Bắc Kinh đang đe dọa an ninh toàn cầu. Cùng quan điểm trên, Rudroneel Ghosh, bình luận viên từ India Times cho rằng việc làm của Trung Quốc “không khác gì hành vi bắt nạt”, khẳng định “chúng là hành động khiêu khích nhằm cho khu vực và thế giới thấy rằng Trung Quốc có thể làm bất cứ điều gì mà không sợ chịu hậu quả tại Biển Đông”; cho rằng Bắc Kinh coi Biển Đông là một yếu tố mấu chốt ảnh hưởng tới động lực phát triển và muốn thống trị nó. Tuy nhiên, có một lỗ hổng trong suy nghĩ này của người Trung Quốc. Các tình thế đối đầu ở châu Âu trong thế kỷ trước đã dẫn tới hai cuộc Chiến tranh Thế giới tàn khốc. Nếu một cuộc xung đột vũ trang quy mô nổ ra ở Đông Á, nó sẽ thảm khốc hơn trước đây rất nhiều bởi sự phát triển vượt bậc của vũ khí ngày nay. Trung Quốc có lẽ nghĩ rằng mối lo sợ về nguy cơ chiến tranh cùng nguy cơ rạn nứt mối liên kết kinh tế chặt chẽ giữa các nước ở khu vực sẽ khiến họ không dám đẩy căng thẳng lên cao. Trong kịch bản đó, Bắc Kinh nghĩ họ có thể từ từ khẳng định chủ quyền ở Biển Đông mà không thực sự gây ra xung đột. Tuy nhiên, mọi hành động đều sẽ nhận được phản ứng tương ứng và rất ít khả năng các nước ở Đông Nam Á sẽ chỉ ngồi nhìn.

Mặt khác, nhà nghiên cứu Lucio Blanco Pitlo III từ tổ chức Con đường Tiến bộ châu Á – Thái Bình Dương, trụ sở ở Philippines, nhận định những hoạt động gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng phá hoại các hoạt động kinh tế hàng hải hợp pháp do các quốc gia khác thực hiện, đồng thời không ngại tham gia vào các hoạt động khảo sát bất hợp pháp tại thềm lục địa những nước láng giềng. Trong khi các nước phải chịu đựng những hành động gây hấn từ phía Trung Quốc thường tìm cách đối thoại để xoa dịu căng thẳng, việc Trung Quốc ngày càng hung hăng nhiều khả năng sẽ dẫn tới những động thái phản kháng mạnh mẽ hơn, từ cả ASEAN và bên ngoài khu vực.

Hội nghị phát triển luật quốc tế châu Á (14-18/10)

Quỹ phát triển luật quốc tế châu Á (DILA) phối hợp với Viện nghiên cứu hàng hải Hàn Quốc (KMI) và Đại học Indonesia tổ chức “Hội nghị phát triển luật quốc tế châu Á” tại Jakarta. Hội nghị này có 8 phiên thảo luận, với sự tham dự của hơn 100 nhà nghiên cứu và chuyên gia luật đến từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung thảo về các vấn đề biển đảo, trong đó có Biển Đông.

Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi gửi tham luận tới Hội nghị, khẳng định luật pháp quốc tế là “quy tắc” và là “nền tảng cần thiết” cho các cuộc đối thoại nhằm giải quyết tranh chấp. Bà Retno cũng cho rằng Quan điểm ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vừa được thông qua nhằm thúc đẩy đối thoại, hữu nghị, hợp tác cũng như luật pháp quốc tế.

Trong khi đó, Tiến sỹ Nguyễn Bá Cường, Viện nghiên cứu khoa học Biển và Hải đảo của Việt Nam nhấn mạnh những đóng góp của Việt Nam vào sự phát triển luật quốc tế tại Biển Đông. Theo Tiến sỹ Nguyễn Bá Cường, tại Biển Đông cũng như các vùng biển khác trên thế giới, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS), đã tạo ra một “trật tự pháp lý” giúp thúc đẩy giao thương, khai thác và sử dụng các vùng biển một cách hòa bình, công bằng và hiệu quả, cũng như thúc đẩy các hoạt động bảo tồn tài nguyên sinh vật, nghiên cứu và bảo vệ môi trường biển. Về những đóng góp của Việt Nam cho sự phát triển của luật quốc tế tại Biển Đông, Tiến sỹ Nguyễn Bá Cường cho biết cũng như các nước thành viên UNCLOS khác, Việt Nam đã và đang áp dụng bộ “hiến pháp đại dương” này trong việc khai thác Biển Đông vì lợi ích của mình. Theo đó, UNCLOS và luật pháp quốc tế đã trở thành công cụ giúp Việt Nam xác định và làm rõ các quyền hạn và nghĩa vụ hàng hải của mình; cung cấp các cơ chế giải quyết các tranh chấp hàng hải với các nước láng giềng khác; và quản lý hiệu quả các tranh chấp. Ngoài ra, ông Nguyễn Bá Cường nhấn mạnh UNCLOS đã đóng vai trò là cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc cho việc xác định và bảo vệ vùng biển và thềm lục địa, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên biển.

Hội thảo “Bộ quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC): Nguồn lực quân sự và Tài nguyên biển” (20/6)

Trường Đại học Thamasat ở Bangkok, Trung tâm Đông Nam Á – Đức về Chính sách công và Quản trị hiệu quả (CPG) và Quỹ Quản trị châu Á (AGF) đã đồng tổ chức Hội thảo “Bộ quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC): Nguồn lực quân sự và Tài nguyên biển”. Cuộc hội thảo có sự tham gia của nhiều chuyên gia, học giả đến từ Đại học Thamasat, Đại học Chulalongkorn, Học viện Công nghệ quốc phòng, Học viện Quốc phòng quốc gia Thái Lan; Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore; Đại học UIN Jember, Indonesia; Đại học La Salle, Philippines, Quỹ phát triển khu vực (LDF), Quỹ Diễn đàn phát triển con người, giới ngoại giao các nước phương Tây, các nước ASEAN…

Tại hội thảo, các học giả đều nhận định Biển Đông là vùng biển có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Biển Đông chứa đựng một lượng lớn dầu mỏ và khí đốt tự nhiên, đồng thời là một trong những khu vực đa dạng sinh học nhất trên thế giới. Về thương mại, khoảng 30% tổng thương mại toàn cầu đi qua Biển Đông, bao gồm gần như toàn bộ hoạt động vận chuyển dầu thô ở Đông Á, làm cho vùng biển này trở thành tuyến hàng hải quan trọng nhất thế giới. Kiểm soát hàng hải tại Biển Đông trở thành một trong những mối quan tâm chính, không chỉ của các nước có tranh chấp mà của các cường quốc lớn trên thế giới.

Tham luận và phát biểu của các diễn giả tại Hội nghị đã xoay quanh các nhóm vấn đề cơ bản là hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông của Trung Quốc, việc không tuân thủ luật pháp quốc tế về biển, mặt chính sách cũng như trên thực địa, bàn luận về những tác động ảnh hưởng của hoạt động quân sự hóa cũng như khai thác tài nguyên thiên nhiên trên Biển Đông đối với việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Tại Hội thảo, các học giả kêu gọi ASEAN duy trì nguyên tắc đồng thuận trước các cuộc đàm phán về Biển Đông. Theo Tiến sỹ Li Nan, Viện Đông Á, Đại học Quốc gia Singapore, sự gia tăng sức mạnh quân sự ở Biển Đông sẽ có tác động rất lớn đến bối cảnh chính trị, an ninh trong khu vực. Các nước trong khu vực cần khai thác tốt các yếu tố vốn có, cũng như xây dựng các cơ chế mới để giảm thiểu tác động tiêu cực từ vấn đề trên, trong đó các nước ASEAN cần phải xây dựng, hoàn thiện vai trò trung tâm của mình, đồng thời đẩy nhanh kết thúc quá trình đàm phán về một COC. Một COC hoàn chỉnh, toàn diện sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho các chủ thể khu vực hành xử một cách trách nhiệm trên cơ sở luật pháp quốc tế, góp phần duy trì hoà bình và ổn định khu vực. Ngoài ra, ASEAN cũng cần vận dụng những cơ chế đang tồn tại như Quy tắc về tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES). Trong khi đó, Tiến sĩ Ma. Carmen Ablan-Lagman, Trung tâm Khoa học và Nghiên cứu tự nhiên (CENSER) của Đại học Se La Salle nhấn mạnh sự suy thoái về môi trường ở Biển Đông và hậu quả đối với khu vực. Theo bà Carmen, các hoạt động đánh bắt tận diệt và bồi đắp các bãi đá, san hô đã tác động nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, huỷ hoại môi trường sống của các loài hải sản và sinh vật biển.

Ngoài ra, giới chuyên gia cũng cho rằng tiến trình kết thúc đàm phán COC sẽ gặp nhiều thử thách trong bối cảnh Trung Quốc phủ nhận phán quyết của Toà trọng tài quốc tế (PCA) hồi năm 2016, hạ thấp giá trị của Công ước Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 (UNCLOS), tăng cường tuyên truyền về cái gọi là thực trạng mới tại Biển Đông. Trong khi đó, Mỹ và các đồng minh ngày càng can thiệp sâu hơn vào khu vực, tạo ra những yếu tố khó tính toán. Do đó, một COC toàn diện, có tính ràng buộc trên thực tế là một yêu cầu cấp bách, do đó, ASEAN cần giữ vững sự đoàn kết, thống nhất và nguyên tắc đồng thuận trước các cuộc đàm phán.

Nhìn chung, trong năm 2019, đã có nhiều Hội thảo, Diễn đàn đối thoại quốc tế trao đổi, thảo luận về vấn đề Biển Đông. Điều đó cho thấy, vùng biển này luôn là sự quan tâm hàng đầu của giới chuyên gia, học giả khu vực và quốc tế. Ngoài ra, việc giới học thuật liên tục đưa ra các tuyên bố lên án, chỉ trích hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông là dẫn chứng xác thực cho thấy Bắc Kinh đang đi ngược lại lợi ích của cộng đông, xâm phạm chủ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới